Thế Giới Cực Lạc – Chương 4

Hằng” tượng trưng cho số lượng nhiều không thể tính đếm, vô số Phật đã tán dương công đức của đức Phật Thích Ca. Tại sao đức Phật Thích Ca tán dương đức Phật A-di-đà chỉ qua một bài kinh ngắn mà lại được vô số các vị Phật tán dương Ngài? Nhân quả tại sao không tương thích nhau?

Giá trị nhân quả tỷ lệ thuận với tâm. Tâm lượng lớn trong tán dương thì quả được khen tặng sẽ lớn hơn nhiều. Người ta chỉ cần làm một mà đạt giá trị đến mười hoặc một trăm. Nếu biết cách đầu tư thì ta sẽ có giá trị về đạo đức, phước báu lớn một cách tương thích. Ví dụ người Tây Tạng vận dụng công thức toán học trong tu tập, thường tạo ra tháp chứa đựng nhiều cuộn giấy. Mỗi cuộn giấy được viết khoảng vài ngàn câu thần chú“Án-ma-ni-bát-di-hồng” tượng trưng cho hạnh phúc, an lạc và hòa bình. Mỗi lần kinh hành qua tháp, người ta lần chuỗi niệm “Án-ma-ni-bát-di-hồng” và tâm liên tưởng đến vô số câu thần chú đựng trong tháp. Câu thần chú được nhân lên từ cấp số nhân đến vô số lần, lệ thuộc vào cách dụng tâm. Phương pháp quán tưởng này làm tăng giá trị của sự hành trì. Tán dương bằng tấm lòng thì giá trị giao thoa tâm linh được mở rộng ra mười phương thế giới. Đây là phương pháp vận dụng toán học trong tâm linh, và là nghệ thuật mà ta có thể thực hiện. Thỉnh thoảng vẫn có người làm như thế, nhưng đôi khi không chú ý đến và do vậy không hiểu được ý nghĩa.

NGHỆ THUẬT TÁN DƯƠNG CỦA CHƯ PHẬT

Đức Phật Thích Ca đã được mười phương chư Phật khen ngợi như sau: “Này Xá-lợi-phất, khi Ta tán dương công đức của Phật Cực lạc Tây phương, thì vô số Phật cũng đang ca tụng công đức của Ta. Đức Phật Thích Ca, thật là hy hữu, trong đời năm trược, thế giới mong manh, thấy biết sai lầm, chúng sanh can cường, não phiền nghiệp chướng, tuổi thọ ngắn ngủi, mà vẫn tu tập, đắc được đạo quả, vô thượng bồ đề; lại còn tuyên thuyết, pháp môn niệm Phật, mang lại an lạc, hạnh phúc đời đời, giúp cho mọi loài, thoát khỏi ba cõi.” Lời tán dương rất ngắn nhưng sâu sắc và ấn tượng với nhiều nội dung khác nhau.

Thế Tôn là bậc hy hữu trong loài người, một siêu nhân về tu tập, đạo đức, dấn thân và hành trì về ứng dụng quyền trí. Ngoài nội dung của sự hy hữu vừa nêu, nó còn được hiểu theo nội dung rằng, Ngài là người tu được trong đời ngũ trược với nhiều dục lạc, cám dỗ và nhiều thách đố.

Rất nhiều người đã nỗ lực đi ngược lại con đường truyền thống của Bà-la-môn giáo, muốn xóa sổ con đường thần linh và kháng cự lại định mệnh do Thượng đế an bày trong bốn bộ kinh điển Vệ-đà với bốn giai cấp xã hội cha truyền con nối. Trong số đó có vài người đã thành công, thiết lập nên truyền thống Sa môn đối lập và phủ định lại truyền thống tâm linh của Bà-la- môn giáo, truyền thống kinh điển Vệ-đà, và tất cả giá trị đạo đức trong truyền thống đó nhưng họ lại tạo ra những bế tắc khác.

Trường phái Sa môn nổi tiếng tại Ấn Độ là duy vật cổ sơ Ấn Độ. Quan điểm của trường phái này là sống dựa trên nhân quả ở một mức độ nào đó. Họ cho rằng mọi thứ trên cuộc đời được diễn ra một cách ngẫu nhiên và chết là hết. Do đó, họ cứ hưởng thụ những gì có được mà không cần ngưỡng bái thần linh, vì các thần linh không giúp ích gì cho cuộc đời, thần linh tạo ra thiên tai, hạn hán, lũ lụt…và nhiều nỗi khổ niềm đau khác. Đó là lý luận của chủ nghĩa Duy vật Ấn Độ.

Bên cạnh đó, có một chủ nghĩa Sa môn khác được gọi là Kỳ Na giáo, sống hạnh ép xác rất cực đoan. Đời sống của họ đáng kính ở chỗ họ không mặc áo quần và vận dụng thiền Yoga để khắc phục cái lạnh băng giá của miềm Bắc Ấn Độ dưới 00 C. Họ sống đơn giản và ăn chay trường. Trường phái này cho rằng con người trải qua một quá trình tiến hóa giống như loài động vật, từ loại bò sát đến loài động vật bốn chân, sau đó đến loài khỉ vượn hai chân và đến loài người. Đến khoảng vài tỷ năm con người tự nhiên trở thành bậc giác ngộ.

Sự nỗ lực tu tập của hai phái Sa-môn này vẫn không tạo ra đáp án gì cho tâm linh và cuộc đời. Thế Tôn cũng là vị Sa-môn nhưng nhờ nương vào hai phương pháp thiền quán vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ của hai vị thầy khai tâm mà Ngài có chiều sâu tâm linh căn bản. Sau đó, vì nhận thấy những giới hạn của nó nên Ngài chuyển sang con đường tu tập trung đạo, cuối cùng Ngài đã phát hiện ra giá trị tâm linh cao quý nhất để cống hiến cho cuộc đời.

NHƯ LAI – BẬC HY HỮU TRONG LOÀI NGƯỜI

Trong đời ngũ dục, Đức Phật bỏ được cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan và địa vị cao nhất trong xã hội không dễ có mấy ai làm được. Từ người ăn xin trở thành người giàu có thì dễ, nhưng một người giàu có chấp nhận thân phận của kẻ khất thực để hoá độ thì quả thật là khó. Cái khó đó đã khiến vua Tịnh Phạn trách Thế Tôn rằng: “Tôi không ngờ có một người con như ông, đã làm mất danh giá của dòng tộc, làm vua không muốn, lại muốn thành kẻ ăn xin”. Thế Tôn lý giải rằng đây không phải là ăn xin, mà là con đường hành đạo để tạo cơ hội hoá duyên quần chúng. Nhờ sự tiếp xúc này lời kinh tiếng pháp có thể ban tặng cho đời. Chính từng bước chân thảnh thơi đã tạo hiệu ứng tâm lý nơi người quan sát. Khất sĩ dù không có tài sản, quyền thế nhưng vẫn toát ra vẻ thong dong, tự tại và hạnh phúc. Đó là bài thuyết pháp không lời rất sinh động. Thái tử đã thuyết phục được nhà vua an tâm, Ngài chẳng những không làm cho danh giá của dòng họ Thích Ca bị mất đi mà trái lại còn làm cho tên tuổi của dòng tộc sống vĩnh viễn với đời. Mọi người sẽ nhớ đến dòng họ Thích Ca vì đã tạo ra một Thích Ca Mâu Ni.

Đức Phật xác định rõ trong cõi Ta bà có thể truyền bá pháp môn Tịnh độ thành công. Điều này có vẻ khá hồ nghi, khi nhiều người cho rằng pháp môn Tịnh độ quá đơn giản, đáp ứng cho mọi căn cơ và trình độ con người, nhưng nếu hiểu kinh A-di-đà một cách nghiêm túc thì pháp môn này quả thật không dễ. Bởi bản chất của pháp môn là thiền quán và giá trị của nó chính là trạng thái nhất tâm bất loạn. Các mô tả vật lý và môi trường sinh thái của Tây phương Cực Lạc chỉ là nghệ thuật mà đức Phật tạo niềm đam mê và thiết lập niềm tin cho các hành giả có nguyện vọng sanh về cõi ấy. Nếu thiếu những viên kẹo bọc đường thì thuốc đắng giã tật của pháp môn Tịnh độ khó mà nuốt trôi. Giá trị hành trì của pháp môn Tịnh độ là con đường dấn thân lục độ vạn hạnh, làm liên tục và tất cả các hạnh lành, cho đến lúc nào không còn gì để làm mới thôi. Đến khi được sanh vào cõi Tây phương Cực Lạc rồi cũng chưa có nghĩa là ta đã hoàn tất công việc hành trì. Hàng ngày các hành giả cõi ấy vẫn phải tiếp tục nhặt hoa công đức, làm các việc phước báu ở những hành tinh khác để cúng dường mười phương chư Phật.

Các hành giả tu tập ở cõi Ta bà vẫn chưa đủ, về Tây phương Cực Lạc lại phải tiếp tục tu để trở thành các vị Thánh, vị Phật và khi đã chứng đắc đạo quả Thánh rồi thì vẫn phải tiếp tục dấn thân phục vụ không lúc nào ngơi nghỉ. Chính vì thế, đây không phải là một pháp môn dễ tu, bởi lẽ tu như thế nào để đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn là cả một nghệ thuật không đơn giản tí nào. Thế Tôn đã phải mất đến bốn mươi chín ngày liên tục mới đạt được trạng thái này dưới cội bồ đề. Tổ Bồ-đề Đạt- ma phải mất đến chín năm xoay mặt vào tường (cửu niên diện bích) mới trải nghiệm hết trạng thái thiền định. Gần đây, có một tiểu Phật ở Népal đã nhập thiền định được bảy tháng. Số người làm được và thành công rất ít. Nghe qua có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại rất khó làm, càng đơn giản bao nhiêu thì lại càng khó làm bấy nhiêu.

NGŨ TRƯỢC Ở CÕI TA BÀ

Những ai truyền bá pháp môn Tịnh độ ở cõi Ta bà này thành công là điều rất đáng tán thán, vì cảnh giới này có đến năm yếu tố chưa được hoàn thiện gọi là ngũ trược. Từ “trược” hiểu theo nghĩa đen là bất tịnh, ô uế. Khái niệm “trược” trong bản kinh được hiểu là bất toàn về đời sống, sinh hoạt, đạo đức, lương tâm, nhận thức, ứng xử, giao tế, hành trì gồm có năm yếu tố như sau:

Kiến trược. Kiến thức thấy biết của con người rất sai lầm do nền tảng văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, triết học hữu ngã và sự bất công tạo nên. Người ta lấy bản ngã làm trục xoay, nhân danh thượng đế, thần linh để gây nhiều tội lỗi cho cuộc đời. Tất cả những điều này đều thuộc về kiến trược, tức là nhơ uế về nhận thức. Sự nhơ uế về nhận thức gồm năm bình diện khác nhau.

– Thân kiến tức là chấp vào thân thể vật lý này là tôi, của tôi. Ai chạm đến cái tôi thì phiền não, sân si bắt đầu trổi dậy dẫn đến va chạm và loại trừ lẫn nhau. Quan niệm thân kiến này diễn ra khi người ta cho rằng nó trường tồn vĩnh cửu. Các tôn giáo khác cho rằng con người khi chết có hai con đường để lựa chọn, một là lên thiên đàng vĩnh viễn, hai là xuống hỏa ngục đời đời. Tất cả những nhận thức như thế đều là sai lầm.

–  Biên kiến được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là các quan niệm, nhận định, đánh giá theo hai khuynh hướng thường và đoạn, nghĩa là con người sẽ sống vĩnh viễn hoặc chết là hết. Các tôn giáo như Do Thái giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành và Hồi giáo đều rơi vào thường kiến như thế. Những ai muốn được công nhận là con chiên trong đàn, phải tin theo mười lời răn của Chúa mới có thể sống đời đời kiếp kiếp ở nước Chúa, nếu ngược lại lời dạy của Chúa thì sẽ bị trừng phạt và ở hỏa ngục đời đời. Thường kiến liên hệ đến phần thân kiến của con người, đoạn kiến rơi vào các quan niệm của chủ nghĩa Duy vật cổ sơ và chủ

nghĩa Duy vật hiện đại với quan niệm “chết là hết, không có đời sau, không có nhân quả báo ứng và đạo đức”. Các quan niệm như thế rất nguy hại trong tình huống con người gặp phải bế tắc, họ lập luận rằng kết quả của kẻ dữ và người lành đều giống nhau, dù có nỗ lực làm tốt nhưng cũng chẳng mang lại kết quả gì. Nghĩa thứ hai của biên kiến là tất cả chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi, dẫn đến đối đầu, tranh chấp lẫn nhau và khổ đau có mặt.

– Tà kiến tức là không tin nhân quả, trái lại tin vào định mệnh hoặc sự an bày của thượng đế,hoặc tin sự ngẫu nhiên hoặc tự nhiên. Tà kiến rất nguy hại, có thể đưa con người rơi vào thường kiến, đoạn kiến hay những quan niệm sai lầm khác.

– Kiến thủ lại càng nguy hại hơn, quan điểm đã sai lầm lại còn chấp vào và cho đó là chân lý. Việc nâng cái sai lầm trở thành chân lý thường thể hiện rõ ở những phong tục tập quán. Một khi chúng đã gắn liền với nền văn hóa thì dù có tác hại hay tiêu cực cách mấy người ta vẫn không dễ dàng từ bỏ chúng. Đối với người có kiến thủ thì không dễ chấp nhận chân lý của người khác vì luôn cho mình là đúng. Đức Phật đưa ra ẩn dụ về cái ly khi lấy nắp đậy lại thì không thể rót nước vào được, nghĩa là não trạng của người đó bị xơ cứng, đóng băng và không thể chấp nhận những gì khác với suy nghĩ của mình.

– Giới cấm thủ là sự sai lầm về phương pháp hành trì. Chẳng hạn có người cho rằng tu khổ hạnh ép xác là con đường giải thoát, hoặc hưởng dục lạc là con đường hạnh phúc tuyệt đối. Các quan niệm này đã nâng không đúng lên thành chân lý. Khi được nâng lên thành chân lý kết hợp với sự nhiệt tình thì người đó sẽ sống với ảo giác. Lúc đó, họ có thể cho mình là Phật, Thượng đế hay là hóa thân của các ngài dẫn đến việc truyền bá quan niệm sai lầm. Đức Phật khuyên các vị xuất gia nếu ai tự xưng mình là bậc thánh thì phạm tội tẩn xuất, nghĩa là vĩnh viễn không còn là thành viên của Tăng đoàn. Sự khoe khoang trình độ tâm linh của mình cho người khác là đi sai đạo Phật dẫn đến thái độ cống cao ngã mạn.

Kiếp trược. Thế giới Ta bà là hành tinh chúng ta đang sống, mang tính vô thường, vô ngã về phương diện thời gian và không gian. Kiếp trược còn được hiểu là một xã hội trong đó chính trị không ổn định, luôn bị thay thế và hà khắc, không chăm sóc đời sống của người dân mà chỉ vơ vét quyền lợi cho riêng mình. Người đang sống trong môi trường đó được xem là đang sống trong kiếp trược với nỗi khổ niềm đau lớn. Hành giả cần thay thế kiếp trược bằng mô hình thu nhỏ của Tây phương Cực Lạc trong cộng đồng, ngôi nhà hay trong tâm của ta với chánh trí, tức là bằng nhận thức Vô Lượng Quang; lấy tuệ giác không giới hạn, trong một triều đại lịch sử hay trong một phạm vi nhất định nào đó để các giá trị chân lý xuất hiện ở mọi nơi, mọi chốn.

Phiền não trược. Đời sống con người thường gắn liền với sầu bi khổ não. Các loại phiền não này là độc tố của tâm lý, cảm xúc và nhận thức. Ai sống trong độc tố sẽ bị chết trước khi kết thúc mạng sống của họ. Kinh A-di-đà dạy ta phải thay thế bằng tâm bồ đề, hay tâm giác ngộ nhờ đó phiền não trược sẽ không còn.

Chúng sanh trược. Con người ở cõi Ta bà có nhiều thói quen xấu, đã tạo ra khuynh hướng, chức nghiệp, lập trường và quan điểm tiêu cực. Họ luôn có khuynh hướng sống vì lợi lạc cho bản thân và gia đình nhiều hơn là cho cộng đồng xã hội. Hễ thấy ai làm việc tốt thì giấu đi nhưng việc xấu thì loan truyền. Thái độ đó làm chúng sanh ở Ta bà trở nên vị ngã, nhỏ nhoi, ích kỷ.

Mạng trược. Là những bất toàn về mạng sống hay tuổi thọ ngắn ngủi. Tuổi thọ con người ở Ta bà khoảng một trăm tuổi, chỉ bằng một ngày một đêm ở Tây phương Cực Lạc. Độ chênh lệch về thời gian ở hai cõi là điều có thật. Thế giới Tây phương với phước báu, khoa học kỹ thuật, phương tiện sinh hoạt và tuổi thọ khác với cõi Ta bà rất nhiều. Dựa vào phước báu của từng người ta có thể biết được tuổi thọ dài hay ngắn. Con người có nhiều bệnh tật nên mạng sống con người là trược uế. Hành giả cần thay thế mạng trược bằng Vô Lượng Thọ, tức là từ công đức tạo ra tuổi thọ không ngằn mé.

HỌC HẠNH TÙY HỶ CỦA CHƯ PHẬT

Chính vì hoàn thành công việc giáo hoá đời năm trược đức Phật Thích Ca đã được mười phương chư Phật tán thán là làm được việc khó làm. Hành động tán thán của mười phương chư Phật không phải là hình thức a dua mà đó là hạnh nguyện tùy hỷ với cái thấy trên giá trị chân lý, và tán dương những gì cần tán dương.

Hạnh tán dương của chư Phật giúp ta học hỏi và thực tập cách thức tán dương người khác. Con người luôn có mặt tích cực và tiêu cực. Đối với mặt tiêu cực, ta góp ý xây dựng để họ có cơ hội sửa đổi. Đối với mặt tích cực, ta nên khen tặng để mọi người có thể học hỏi, bắt chước. Những người đóng góp tiền bạc, tài vật vào các việc từ thiện thì nên nêu rõ danh tánh; bởi đó không phải sự ngã mạn, mà là sự phổ biến về phương diện xã hội. Các bậc cha mẹ làm công đức nhiều mà giấu đi thì con cái làm sao biết để bắt chước noi theo. Khi được chùa tặng tuyên dương công đức, ta nên trân trọng treo lên tường để con cháu, bà con lối xóm và thân bằng quyến thuộc nhìn thấy mà bắt chước làm theo. Theo Phật giáo, cái đẹp, cái tốt cần phải được tuyên dương Việc làm này là một trong mười hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Ai cũng có điểm tích cực đáng được khen. Tâm lý con người thích được khen hơn là chê. Một lời khen đúng có thể giúp cho ta phấn đấu nhiều hơn lời chỉ trích, chê bai.

Pháp môn Tịnh độ trong kinh A-di-đà không những dạy về phương pháp nhất tâm bất loạn, cách thức dấn thân hành trì của các hành giả, thánh giả, mà còn dạy ta gương hạnh tán dương của chư Phật. Đức Phật tán dương người tốt, việc tốt sẽ tạo nên dấu ấn và đạo lý để mọi người cùng làm theo. Đức Phật A-di- đà khi được đức Phật Thích Ca tán dương, vẫn mặc nhiên để cho lời khen tặng ấy được diễn ra. Đức Phật Thích Ca khi được mười phương chư Phật khen tặng, đã im lặng. Từ chối lời khen tặng một cách khéo léo có nghĩa là muốn người khác khen mình nhiều hơn. Chư Phật không làm như thế. Cứ để việc làm tốt được mọi người khen.

Học hạnh của chư Phật, ta cần tán dương những người làm việc lành, đóng góp cho xã hội và dấn thân tích cực trong đời. Ngày nay, nhờ các phương tiện thông tin, công việc tán dương được nhân rộng và lây lan. Ví dụ đi vận động từ thiện mà tự đưa tin lên truyền hình thì sự lây lan tâm lý được phổ biến, mọi người tích cực hưởng ứng, nhưng nếu âm thầm làm từ thiện thì sự đóng góp đó sẽ bị hạn chế. Để lại lời tán dương công đức và danh tánh của những người ấn tống, có thể làm cho nhiều người hiểu lầm rằng, đã làm công đức mà còn để tên vào chẳng khác nào làm cho bản ngã phình to. Hiểu như thế là chưa thấu đáo, bởi tán dương công đức là giúp người khác, học tập và bắt chước làm theo. Việc tán dương mang giá trị xã hội và lây lan. Nếu việc làm lành mà không ai hưởng ứng thì việc ấy sẽ bị đứt đoạn. Dĩ nhiên, việc tán thán phải đúng, khen người không đáng được khen sẽ trở nên vô nghĩa.

Thích Nhật Từ

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.