Xuân tức cảnh
Xuân của đất trời, xuân của ai?
Mà nơi non lạnh, liếp thưa cài
Mù mây lửng thửng chơi đồi vắng
Sương khói lơ thơ dạo lũng dài
Nắng mới nể tình hong ấm tóc
Gió lành vị nghĩa thổi vui tai
Đá nằm vườn cỏ, công bao độ
Hoa nở hiên lan, đức mấy vài
Thơ vụng mượn vần, đùa trúc biếc
Bút cùn khoe chữ, cợt đào phai
Lộc non phơi phới, rừng thay áo
Đón khí thanh dương, mở cửa sài!
Xuân tự sự
Gẫm chuyện năm qua, Phật mỉm cười
Làm nhiều, nghỉ khỏe, lãng du chơi
Dựng xây chùa cảnh, duyên lo vốn
Sáng tác thơ văn, chữ kiếm lời
Việc được, việc chưa, nghe pháp nói
Điều hay, điều dỡ, ngắm hoa rơi
Bụi mê, bỏ quét, xoa rồi phủi!
Thuyền giác, buông chèo, chống lại bơi!
Lòng rỗng, phiền ưu không khoái chỗ
Óc nhàn, tham giận chẳng thèm nơi
Đã về, đã tới quê hương cũ
Then khóa tử sinh, lỏng chốt rồi!
Xuân trí tuệ
Giác tính muôn xưa vẫn tịch thường
Xuống trần, quang rạng một vầng dương
Soi lòng khô mục, bung hoa lộc
Chiếu óc trơ lì, biết hiểu thương
Tăm tối nghe kinh, trăng dọi bóng
U mê học pháp, nước mài gương
Mắt mù, mò mẫm tìm chân thực
Thân tật, lần dò gặp cố hương
Sanh, già – vỡ đất, trồng cây trái
Bệnh, chết – lấp mồ, cấy ruộng nương
Phản chiếu, hồi đầu, nguyên diện mục
Thế gian như thị, Tuệ-Con-Đường!
Xuân từ bi
Xuân Phật, thương ai khổ, đói, nghèo
Lại thêm đạo lý tóp rồi teo!
Trông lên, bao kẻ xơi vàng lá
Nhìn xuống, lắm người xực cám heo
Túng quẩn, giết bừa, tù khóa buộc
Đói cuồng, cướp cạn, tội cùm đeo
Cánh đồng tình nghĩa, cây khô nỏ
Sa mạc nhân luân, lửa cháy xèo
Xấu ác quen nề, không biết thẹn
Tốt lành tủi phận, phải nằm queo
Cao hiền, trí giả, tâm vô lượng
Thuyền nhỏ, từ bi, vẫn ráng chèo!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh