Pháp Chỉ Thẳng

Cũng trong cung cách đánh thức chỉ thẳng này thiền sư Pháp Loa khi nghe chúng tụng kinh hỏi một vị tăng rằng:

Chúng đang làm gì?

Tăng thưa:

– Chúng niệm Phật tâm.

Sư bảo:

– Nếu nói là tâm, thì tâm không Phật. Nếu bảo là Phật thì Phật không tâm. Vậy, cái nào gọi là tâm?

Vị tăng này đáp không được, Sư lại hỏi một vị tăng khác:

– Chúng đang làm gì?

Tăng thưa:

– Niệm Phật.

Sư bảo:

– Phật vốn không tâm thì niệm cái gì?

Tăng thưa:

– Chẳng biết.

Sư bảo:

– Ngươi nói chẳng biết, vậy ai nói đó !?

Tăng không đáp được.

Lâu lâu trắc nghiệm tiến trình tâm linh của đệ tử, nhưng rõ ràng tâm thức cả hai đều chưa đến độ chín mùi, thành ra cũng chỉ là công dã tràng. Từ những phép phủ định đưa vào ngõ bí, để từ đó có thể đả thông cho đệ tử. Song hai người đệ tử từ bí này đẻ ra bí khác chứ không thể nào mở được cho mình một con đường sống, cho dù thiền sư ướm thêm một chút nữa, nhưng vẫn không chuyển não được người đệ tử trong pháp chỉ thẳng này.

Ở đây, chữ ” Ai” một phản diện của bộ mặt thật đã được thầy đặt ra và, trình diện cho chính người bị hỏi, nhưng người bị hỏi vẫn mù tịt. Thường cách chỉ thẳng bằng biểu tượng phản diện này được các thiền sư sử dụng rất nhiều và đa dạng, như trong lời đối đáp giữa thiền sư Vân Nham và Đạo Ngô.

Vân Nham đang nấu trà, Đạo ngô hỏi:

– Nấu trà cho ai?

Sư đáp:

– Có một người cần.

Đạo Ngô hỏi:

– Sao không dạy Y nấu!?

Sư đáp:

– Hiện nay đang có tôi ở đây!

Đối với các thiền sư đó là một cách thăm dò hố thẳm của nhau, cụ thê堦 #273;ơn giản rõ ràng như ban ngày bằng chính cuộc sống của các ngài. Điều đó chứng tỏ rằng cái chân tâm luôn luôn hiện hữu nơi mọi người, trong cuộc sống bình thường này. Nhưng chúng ta không nhận ra được thôi, chứ không phải chúng không hiện hữu, hay chúng không có nơi chúng ta, mà chúng ta phải đi tìm kiếm ở đâu bên ngoài cuộc sống chính chúng ta.

Như Hoàng bá trả lời khi tướng quốc Bùi Hưu hỏi về Cao Tăng qua công án.

” Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa Khai Nguyên, thấy hình vẽ trên vách hỏi thầy trú trì:

– Hình gì đây?

Thầy đáp:

– Hình Cao Tăng.

Bùi Hưu hỏi:

– Hình thì có thể thấy nhưng Cao tăng thì ở đâu?

Thầy trú trì không đáp được, Bùi Hưu hỏi:

– Ở đây có thiền nhơn không?

Thầy trú trì đáp:

– Vừa có một vị tăng vào chùa làm công quả rất giống thiền giả.

Tướng quốc Bùi Hưu thưa:

– Xin thỉnh đến thưa hỏi được không?

Thầy trú trì đi mời Hoàng Bá đến, tướng quốc Bùi Hưu thấy sư vui mừng thưa:

– Bùi Hưu tôi vừa có một câu hỏi, nhưng chư đại đức ở đây tiếc lời. Giờ xin thượng nhơn thay họ đáp cho.

Hoàng Bá nói:

– Mời tướng quốc hỏi.

Bùi Hưu lập lại câu hỏi trước. Hoàng bá liền cao tiếng gọi:

– Bùi Hưu!

Tướng quốc ứng tiếng dạ!

Hoàng bá hỏi:

– Ở đâu?

Ngay đó, tướng quốc nhận ra ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc.”

Hỏi-kêu-ứng tiếng dạ, ở đâu? Bùi Hưu nhận ra ý chỉ là ý chỉ gì? Thật ra chả có ý chỉ gì để cho Hoàng Bá trao cho Bùi Hưu cả, và ngược lại Bùi Hưu cũng chả có nhận được gì nơi Hoàng Bá trao cho, vì mỗi người tự hiện hữu một cao tăng nơi chính mình, tự mình không nhận ra thôi! Ông Phật ở đâu mà bày trò tìm kiếm?

Để rõ ràng hơn tí nữa chúng ta theo dõi cuộc đối thoại giữa Linh Hựu Qui Sơn và Viên Trí.

Linh Hựu Qui Sơn hỏi Viên Trí:

– Từ đâu đến?

Viên Trí đáp:

– Xem bệnh đến.

Qui Sơn hỏi:

– Có bao nhiêu người bệnh?

Viên Trí đáp:

– Có ngưòi bệnh có người chẳng bệnh.

Qui Sơn nói:

– Có người không bệnh, đâu không phải là Viên Trí đầu đà!?

Viên Trí đáp:

– Bệnh cùng chẳng bệnh đều không can hệ đến việc của nó. Nói mau! nói mau!

Có bệnh không có bệnh đều không can hệ đến việc của nó là một câu chỉ thẳng. Ở đây, nếu bệnh và không bệnh có can hệ đến, thì chính nó bị các pháp chi phối trói buộc, và ngược lại nếu nó can hệ đến bệnh và không bệnh, thì chính nó tự buộc tự trói mình. Vậy thì ở đây, chủ thể và đối tượng không phải hai đường. Khi mê thì có chủ thể và đối tượng, khi ngộ ra rồi thì cả hai đều vô sự, không can hệ lệ thuộc nhau. Do đó chúng dung nhiếp nhau, thông hội nhau không phải hai cũng không phải một, đó chính là thái độ tự tại giải thoát của các vị thiền sư trong cuộc sống vô sự của các ngài được thể hiện qua công án trích dẫn sau đây.

Hoà thượng Tuyết Phong vào núi nhặt được nhánh cây giống hình con rắn, và đề trên lưng một câu: ‘Vốn tự thiên nhiên chẳng nhờ bào gọt’ gởi tặng Đại An.

Đại An nhận và bảo:

– Người vốn sắc núi, không tỳ vết dao búa.

Cái gì đã bị bàn tay can thiệp của con người vào, thì đó chính là một sự thể hiện đúng sai của nhân quả, chúng sẽ bị bóp méo không còn như thật chính nó. Ở đây chính nó là cái vốn tự nhiên như nhiên của thiên nhiên chẳng nhờ bào gọt, và cũng chính vì thế mà Đại An phải phán: ‘Người vốn sắc núi không tỳ vết dao búa’ . Kể ra hai lão đã nhận ra bộ mặt xưa nay của chính họ, qua cung cách ứng xử trong việc thể hiện, mà ở đó chính họ đã tự thể nghiệm qua cách trình bày chỉ thẳng này, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày cũng như Linh Hựu bảo Huệ Tịch khi cùng chúng đi hái trà.

Linh Hựu cùng chúng đi hái trà, Linh Hựu bảo Huệ Tịch:

– Suốt ngày hái trà chỉ nghe tiếng con, mà chẳng thấy hình con. Hãy hiện bổn hình cho ta thấy coi !

Huệ Tịch liền rung cây trà.

Linh Hựu bảo:

– Chỉ được cái dụng còn cái thể của nó chưa được!

Huệ Tịch thưa:

– Chưa biết Hoà thượng thế nào?

Linh Hựu im lặng.

Huệ Tịch thưa:

– Hoà thượng chỉ được cái thể còn cái dụng của nó chưa được !

Linh Hựu bảo cho con hai chục gậy.

Nhằm vào mọi thi vi động tác trong cuộc sống, qua đó mọi cử chỉ mọi hành động, nói năng, đi đứng nằm ngồi v.v… được thể hiện như là những tín hiệu thông tin cho nhau, được đem ra áp dụng chỉ thẳng hằng ngày, trong những cuộc tiếp xúc trắc nghiệm nhau, mà theo đó chúng mang một sắc thái trần truồng như thật. Ở đó, không những thiền sư tự thể hiện một cách tự tại vô phân biẹ䴬 mà những người phàm tục như chúng ta, cũng được thể hiện qua cuộc sống. Nhưng vì chúng ta còn mê nên không nhận ra bộ mặt thật chính mình được thể hiện.

Như Huệ Tịch đã có kinh nghiệm khi trả lời cho Qui Sơn.

Qui Sơn hỏi Huệ Tịch:

– Nghiệp thức chúng sanh mênh mông trên quả đất không gốc có thể tựa, ông làm sao có thể biết họ có hay không?

Huệ Tịch đáp:

– Con có chỗ kinh nghiêﭬ Bỗng có một vị tăng đi ngang qua, Huệ Tịch gọi Xà Lê ! Vị tăng xoay đầu lại. Huệ Tịch thưa:

– Bạch Hoà thượng kẻ này là nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa.

Qui Sơn khen:

– Đây là một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa.

Ở đây, nếu vị Xà Lê nọ mà biết hai lão già bê bối này đem mình ra để trắc nghiệm cho nhau, thì có lẽ vị tăng nọ ói máu đen ra rồi ! Bỡi vì không biết cho nên ông đã trần truồng thể hiện qua cái quay đầu lại, và cũng nhờ đó mà Qui Sơn thấy rõ Huệ Tịch qua cái quay đầu lại của kẻ khác này. Đó chính là cái nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa được của Thiền Tông. Qua đây, nếu ai thấy được cái không gốc mà có thể tựa được thì thấy được trí tuệ ” Vô sở đắc” của Bát Nhã Tâm kinh, và ” Vô sở trụ” của Kim Cương kinh. Tuy nhiên khi đã thấy được ” Vô sở đắc” và ” Vô sở trụ” rồi thì cái vô sở đắc vô sở trụ này không còn đất đứng nữa. Té ra chúng chỉ là một trò đùa, được các lão dàn dựng lên để lừa bịp thiên hạ cho vui; thật ra chúng chả can hệ gì đối với tánh bình đẳng của các pháp. Do đó khi nghe đến những từ ngữ này thì các lão, hoặc là vì để dỗ dành mà bịt tai chạy không kịp thở, hoặc mặc kệ tự chúng tùy nghi.

Qua những trích dẫn ở trên, cho chúng ta một cái nhìn mới toanh về sự thể hiện qua đó, chân tâm được thể hiện bày tỏ một cách bình thường sống động trong cuộc sống, mà chúng ta không nhận ra được, và đã bỏ quên nó. Ở đây, những gì được thể hiện mà chúng ta coi như không có tác dụng đối với mọi giá trị nhân quả, thì cái đó được các ngài dùng để chỉ thẳng. Cái gì không có tác dụng giá trị nhân quả, thì cái đó được thể hiện trần truồng, không mang nhãn hiệu do trí phân biệt đẻ ra áp đặt lên nó, cái này là cái không nhân không quả, chúng không lệ thuộc vào bất cứ nhận thức phân biệt nào của chúng ta. Chúng sẽ xuất hiện tùy duyên và biến theo đó như là một định thức duyên khởi, do đó chúng không tùy thuộc vào thời gian hay không gian. Ở đây, chúng là không thời, nên ở đó mọi tự tại được xuất hiện một cách đơn sơ dễ dãi mộc mạc quê mùa.

Cách thể hiện được chỉ thẳng này cũng chính là nếp sống thể hiện thường nhật hằng ngày của các thiền sư trong cuộc sống qua đó nhà thiền gọi là nếp sống “Thỏng tay vào chợ,” mọi trói buộc đều được mở toan ra hết, được bóc vỏ sạch sành sanh, trần truồng như thật chính nó.

TT. Thích Đức Thắng

http://buddhahome.net/phatphap/thientong/phapchithang.htm

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.