Thiền Sư Liễu Quán ( 1667-1742 )

Thiền sư Liễu Quán (1667 – 1742) Sơ Tổ Thiền phái Liễu Quán tại Việt Nam, Tổ Sư đời thứ 35 của Tông Lâm Tế.

Nhân phong tỏa lần ba vì đại dịch !
Tìm về nguồn cội Phật Giáo Việt Nam
Được phục hưng thời Trịnh Nguyễn phân tranh
Đàng ngoài, đàng trong đều có Cao Tăng công hạnh chân chánh!

Từ Thanh Hoá vào miền Nam xin kể về Tổ Liễu Quán (1)
Dựng xây nên một thiền phái rất đặc thù (2)
Nền tảng phước, Đức bước đầu để học Tu
Thì Giới Định song song phát sinh Tuệ Giác !

Thể dụng viên thông hoằng hoá đường… Bồ Tát
Minh chứng liễu tri diệu lý SẮC, KHÔNG
Khi thực hành , nghĩa kinh kệ song song
Mà kệ thị tịch(3) và kệ truyền pháp (4) đã tóm gọn phương cách !

Kính tán dương, đảnh lễ Tổ Sư đã khơi nguồn mạch,
Việt Hoá tất cả từ nghi lễ đến kinh sách !

Nam Mô Thiệt Diệu Liễu Quán Thiền Sư tác đại chứng minh.

Huệ Hương – Melbourne 1/6/2021

___________________________________________

(1) Sư tên Lê Thiệt Diệu, quê làng Bạch Mã, sinh năm Đinh Mùi ( tháng 11 /1667)huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (Sông Cầu bây giờ). Lúc sáu tuổi, Sư mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội Tôn thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên (người Trung Hoa).

Được bảy năm thì Hòa thượng tịch, Sư ra Thuận Hóa xin học với Giác Phong lão tổ (người Trung Hoa) ở chùa Báo Quốc.

Ở đây được một năm, nhằm năm Tân Mùi (1691), Sư phải trở về phụng dưỡng cha già, lấy nghề kiếm củi độ nhật.
Qua bốn năm thân phụ mất, nhằm năm Ất Hợi (1695), Sư lại trở ra Thuận Hóa thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm.

Năm Đinh Sửu (1697), Sư lại thọ giới Cụ túc với Lão hòa thượng Từ Lâm (người Trung Hoa) ở chùa Từ Lâm.

Năm Kỷ Mão (1699), Sư đi tham lễ khắp Thiền lâm trải qua biết bao sự khó khăn khổ nhọc. nguyện học pháp môn nào mà mình có thể lãnh hội liễu ngộ.

Đến năm Nhâm Ngọ (1702), Sư lại Long Sơn tham yết Hòa thượng Tử Dung cầu dạy pháp tham thiền. Hòa thượng dạy Sư tham câu:

Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Sư ngày đêm tham cứu đến bảy, tám năm mà chưa lãnh hội, trong lòng tự lấy làm hổ thẹn.

Một hôm, nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thoạt nhiên Sư được tỏ ngộ. Nhưng vì núi sông cách trở, Sư không thể đến ngài Tử Dung để trình sở ngộ được.mãi Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Sư trở ra Long Sơn cầu Hòa thượng ấn chứng.

Sư đem chỗ công phu của mình mỗi mỗi trình bày, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Ngay lúc đó liền bảo:

– Bờ thẳm buông tay, tự nhận đảm đang,
Chết rồi sống lại, dối người chẳng được.
(Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương,
Tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc.)

Sư liền vỗ tay cười ha hả!
Hòa thượng bảo:
– Chưa nhằm.
Sư nói:
– Trái cân vốn là sắt (bình thùy nguyên thị thiết).
Hòa thượng bảo:
– Chưa nhằm
Hôm sau Hòa thượng gọi Sư đến bảo:
– Chuyện hôm qua chưa xong, nói lại xem!

Sư thưa:
– Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi.
(Tảo tri đăng thị hỏa,
Phạn thục dĩ đa thì.)

Bấy giờ, Hòa thượng mới chấp nhận và khen ngợi.
Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện (?), Sư đem trình bài kệ Dục Phật (tắm Phật).
Hòa thượng hỏi:
– Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhau, chẳng biết truyền trao cái gì?

Sư thưa:
– Búp măng trên đá dài một trượng,
Phất tử lông rùa nặng ba cân.
(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,
Qui mao phủ phất trọng tam cân.)

Hòa thượng nói:
– Thuyền chèo trên núi cao,
Ngựa đua dưới đáy bể.
(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã.). hỏi yếu nghĩa là sao?

Sư đáp:
– Cây đàn không dây trọn ngày gẩy
Trâu đất gẫy sừng rống suốt đêm.
(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử tận nhật đàn.)

Sư biện tài lanh lẹ, lâm cơ ứng biến, như nước với sữa rất phù hợp. Hiển bày Bát Nhã
Hòa thượng rất vui mừng ấn khả.cho Ngài nối pháp

(2) Sau đó, ngài Liễu Quán vào núi Thiên Thai lập am tu thiền. Hằng ngày Tổ sống khắc khổ, đạm bạc bằng vật thực mọc ở ven hồ chẳng cần lương thực gì khác.

Trú xứ hóa duyên của ngài rất rộng, ngài thường xuyên ra vào Huế, Phú Yên để hóa đạo. Từ năm Canh Dần (1710) đến năm Tân Sửu (1721), Tổ đã chống tích trượng đi khắp nẻo làng quê của đất Phú Yên từ hòn Mõ, ra tận hòn Chuông để hoằng hóa chánh pháp, tiếp Tăng độ chúng, khai lập chùa chiền. Tổ đã khai sơn chùa Bảo Tịnh tại Tuy Hòa.

Đến năm Nhâm Dần (1722), ngài trở ra Huế cùng với vị đệ tử út tên là Tế Vĩ trụ tại Thiên Thai Huyền Tôn tự tiếp tục việc hoằng hóa ở đất Thần kinh.

Từ năm Năm Quý Sửu (1733), năm Giáp Dần (1734) và năm Ất Mão (1735), ngài được sự thỉnh cầu của các tông môn ở Huế, chứng minh các Đại giới đàn tại đây.

Năm Canh Thân (1740), ngài tấn đàn Long Hoa phóng giới cho đàn hậu tấn. Thời ấy chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) rất mến đạo hạnh của ngài nên thường đến chùa Viên Thông đàm đạo và thỉnh ngài vào cung để bàn luận Phật pháp nhưng ngài từ chối khéo không vào.

Mùa Xuân năm Nhâm Tuất (1740), ngài làm Hòa thượng Đàn đầu cho Đại giới đàn tại chùa Viên Thông.có hơn 4000 người tham dự

Tổ Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh động, có một nền móng vững chắc ở đàng trong (tức là từ Thanh hóa trở vào).Trước khi tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung quốc (vì có ngài Nguyên Thiều, ngài Thạch Liêm, ngài Tử Dung, v.v..).Chính tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ, v. v..

Ngài có bốn vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Bốn ngài nầy đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương chánh pháp lớn lao khắp đó đậy ở đàng Trong. Và, từ thế kỷ thứ 18 trở về sau nầy nghiễm nhiên với danh xưng Thiền Phái Liễu Quán

Khi chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, Thiền Phái Liễu Quáncũng đi dần theo quần chúng ở các vùng đất mới
Và từ đó, Thiền Phái Liễu Quán cứ phát triển và lớn dần lên mãi. Những năm đầu chấn hưng Phật giáo qua các thập niên ba mươi, bốn mươí và cận đại, thiền phái Liễu Quán đã đóng một vai trò trọng yếu của Phật Giáo vào thế kỷ 17/18 đến nay

(3) Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), Sư lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông. Cuối mùa thu năm ấy, Sư có chút bệnh, gọi môn đồ đến dạy rằng:

– Nhân duyên ta đã hết, ta sắp đi đây.
Môn đồ kêu khóc ầm lên. Sư lại bảo:
– Các ngươi kêu khóc mà làm gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn; nay ta đi lại rõ ràng, về ắt có chỗ, các ngươi không nên khóc lóc và đừng buồn thảm lắm.

Cuối tháng hai năm Quí Hợi (1743), trước mấy ngày tịch, Sư ngồi dậy vững vàng, tự cầm bút viết bài kệ từ biệt rằng:

Hơn bảy mươi năm ở cõi này,
Không không sắc sắc thảy dung thông
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ
Nào phải bôn ba hỏi Tổ tông.
(Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.)

(4) Sáng ngày 22-11-Nhâm Tuất (1742), ngài vẫn dùng trà và đàm đạo cùng các đồ đệ.

Trước khi ngài viên tịch, ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:để định hướng cho Tông của Ngài

“Thiệt tế đại đạo,
Tánh hải thanh trừng,
Tâm nguyên quảng nhuận,
Đức bổn từ phong,
Giới định phước tuệ,
Thể dụng viên thông,
Vĩnh siêu trí quả,
Mật khế thành công,
Truyền trì diệu lý,
Diễn xướng chánh tông,
Hành giải tương ưng,
Đạt ngộ chơn không.”

Sư ông Nhât Hạnh đã dịch như sau

Thực tế đường lớn (con đường mình phải theo đúng lộ trình để được thể tánh tịnh minh)
Biển tánh lắng trong ( muốn đến biển tánh tỳ lô giá na cần phải thanh tịnh trong sạch )
Nguồn tâm nhuần khắp( chỉ khi nào điều phục Tâm mình thì Tuệ giác mới tỏa rộng và thấm nhuần đến khắp nơi )
Gốc đức từ phong( muốn vậy công Đức phải vun trồng )
Giới định phước huệ ( và người tu phải tu Phước thì Giới Định Tuệ mới viên thành và giữ được )
Thể dụng viên thông ( Thể. Tướng , Dụng bên ngoài và bên trong đều vô ngại )
Trí quả vĩnh siêu ( trái quả sẽ siêu việt và Vĩnh viễn không tái sinh lại kiếp luân hồi )
Thầm hợp thành công( ( lặng lẽ nhưng làm được rất nhiều việc , chỗ nào làm việc gì cũng thành công )
Truyền giữ lý mầu ( cần phải giũ đạo lý này và truyền cho thế hệ mai sau )
Tuyên dương chánh tông( Đó chính là cách phổ biến quảng bá nhất cho Chánh Tông )
Biết làm đồng nhất( đó là thực hành và giáo thuyết học được phải đi song đôi và đồng nhất )
Đạt ngộ chân không.( thì mới gọi là đã vào Phật địa , thấy được Như LaiTạng , Thể tánh tịnh minh )

Đặc biệt là 3 câu cuối đều rốt ráo quy về Phật Tánh , tìm được Ông Phật của chính mình là cứu cánh

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.