Lục Vân Tiên

Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi.(83)
Trải qua thuỷ tú sơn kì,(84)
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay.(85)
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài, (86)
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87)
Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.
Trực rằng: “Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây”. (88)
Tiên rằng: “Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau” (89)
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)
Chênh vênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91)
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: “Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao”.
Hâm rằng: “Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:”.
Bèn kêu ông quán nói rằng:
“Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề”. (92)
Quán rằng: “Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93)
Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94)
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng”.
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: “Ông quán cười ai?”
Quán rằng: “Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên”. (98)
Trực rằng : “Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?” (99)
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” (100)
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào, (101)
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102)
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan, (103)
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân, (104)
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng, (105)
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106)
Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107)
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108)
Thương thầy Đồng tử cao xa, (109)
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110)
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111)
Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112)
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương”.
Trực rằng: “Chùa rách Phật vàng, (113)
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?”
Quán rằng: “Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115)
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116)
Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117)
Một mình một núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài, (118)
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
Thái Công xưa một cần câu, (119)
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120)
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121)
Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.