Tại sao có người ngồi lâu và không mỏi mệt mà vẫn không thấy có kết quả bao nhiêu?
Có phải khi con người ngồi thiền là cố gắng để đạt đến giác ngộ? Cái lòng mong cầu ao ước đó chính là một chướng ngại đã phá đi trạng thái ung dung tự tại cần thiết. Sự mong cầu dù mong cầu một sự bình an, một sự giác ngộ vẫn là vọng niệm làm khuấy động mặt nước hồ tâm thì làm sao ánh trăng chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn được.
Còn khi ngồi thiền có nên chú trọng về sự phát triển về định lực không?
Phát triển về định lực không phải là mục đích tối hậu của Phật giáo mà nó chỉ là một phương tiện, một trình độ mà người ta có thể đạt được khi sự tập trung lên đến một mức độ nào. Bởi vì tuy có định mà thiếu tuệ thì làm sao có thể kiến tánh được?
Người có định lực có thể phát triển được những năng lực siêu nhiên như thần thông. Nhưng dù đạt đến trạng thái tuyệt đỉnh con người vẫn không thể cắt đứt được sự kiềm chế của luân hồi sanh tử vì vẫn còn chịu sự chi phối của nghiệp lực. Người có định tuy làm chủ được thân tâm nhưng vẫn không thoát khỏi sự chi phối của khổ não vì chưa nhận ra được tự tánh của mình. Có định phải có tuệ đi kèm thì mới nhận ra tự tánh của mình được. Đó chính là điều mà Lục Tổ Huệ Năng đã nói:” Nào ngờ bản tánh vốn tự đầy đủ, vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh diệt…” Nếu đã nhận ra tự tánh thì thực chất của cái kinh nghiệm đó sẽ không khác điều mà xưa kia chư Phật hay chư Tổ đã chứng đắc. Kiến tánh chính là sự phối hợp tự nhiên của định và tuệ. Định là sức mạnh và tuệ là chất xúc tác để mở con mắt tâm. Thiếu trí tuệ con người chỉ có thể kinh nghiệm được những cái gì hời hợt, nông cạn, chợt đến chợt đi trong chốc lát. Và sau cùng chỉ là những kỷ niệm rời rạc, chẳng giúp ích gì mà còn là những chướng ngại nếu con người cứ mãi bám víu vào đó.
Tại sao ngồi thiền làm cho con người cảm thấy hạnh phúc, thoải mái hơn?
Trong cuộc sống con người thường quen suy nghĩ theo đường lối nhị nguyên. Đó là có chủ thể và có đối tượng nên thường bám víu vào bản ngã. Các cảm giác khoái lạc và hạnh phúc cũng đều xảy ra quanh cái bản ngã nầy. Khi con người không còn tập trung vào bản ngã thì họ sẽ cảm thấy sung sướng, thoải mái hơn các cảm giác của bản ngã. Tuy nhiên con người cũng đừng nên bám víu lấy nó, chỉ nên coi nó là một việc đã xảy ra rồi và quên nó đi. Đừng để kinh nghiệm nầy trở nên một kỷ niệm mà giữ trong tâm để trở thành chướng ngại.
Khi thân tâm cảm thấy sợ hãi, mỏi mệt có phải là dấu hiệu thông thường hay bất thường trong khi tu tập?
Đó là một điều thường xảy ra. Một cái máy có thể hoạt động đều đặn không ngừng nhưng một con người thì không như thế. Có lúc cơ thể mỏi mệt vì các hiện tượng tâm lý hay sinh lý hoặc cả hai. Nhưng điều quan trọng là phải vững tâm và đừng thất vọng. Chính chúng ta phải tin chắc rằng mình sẽ thành công và sự quyết tâm nầy sẽ gây phấn khởi và khôi phục lòng nhiệt thành của chúng ta. Một khi mình nghĩ là mình không thể đạt được điều mình muốn hoặc tệ hơn nữa là cho việc đó vượt khỏi khả năng của mình thì không bao giờ chúng ta có thể nhận ra được chân tánh của mình. Do đó muốn thành công thì chúng ta phải tuyệt đối tin vào mình cái mà nhà Phật gọi là đại tín căn hay lòng tin nhiệt thành. Một lòng tin đã cắm rễ rất sâu, không gì có thể lay chuyển được. Đây không phải là lòng tin mù quáng hay mê tín dị đoan, nhưng là một lòng tin tưởng chắc chắn vào những điều Đức Phật đã chỉ dạy.
Ngày xưa Đức Phật đã nói:”Ta là Phật đã thành và chúng sinh là Phật sẽ thành” thì chắc chắn chúng ta sẽ thành Phật vì chúng ta vốn sẵn có khả năng đó. Nếu người nào không tin được điều nầy thì chắc chắn không thể tiến xa được. Yếu tố quan trọng thứ hai là đại nghi ngờ hay sự nghi ngờ mãnh liệt. Một nỗi nghi khiến chúng ta cảm thấy áy náy, khó chịu, không sao tìm được sự giải thích thỏa đáng. Đây không phải là một mối nghi ngờ tầm thường hay đơn giản, nhưng là một mối nghi phát xuất từ lòng tin nhiệt thành kia. Đó là cái nghi rằng tại sao thế giới nầy lại đầy xung đột, mâu thuẩn và đau khổ khi lòng tin nhiệt thành cho rằng chính sự ngược lại như vậy mới đúng. Cái nỗi nghi mãnh liệt nầy hiện hữu tương xứng với cái lòng tin nhiệt thành kia.
Do đó mới nẩy sanh yếu tố quan trọng thứ ba là đại phấn chí hay sự quyết tâm dũng mãnh. Sự quyết tâm nầy phát xuất một cách tự nhiên từ sự nghi ngờ mãnh liệt kia. Để dẹp tan mối nghi ngờ đó, con người mới dốc toàn lực ra để khám phá vì sao lại có sự nghịch lý như vậy. Tại sao bản tánh của chúng ta vốn tự trong sạch, đầy đủ và không sinh diệt mà thế giới của chúng ta cũng là những biểu hiện của nội tâm chúng ta lại bất toàn, thiếu sót, đầy những khổ đau và luôn luôn thay đổi như vậy. Chính cái động năng cương quyết tìm kiếm câu trả lời nầy sẽ dẫn con người đến nơi kiến tánh. Giải quyết được mối nghi nầy là phá vỡ được tất cả những mâu thuẩn nhị nguyên và đây chính là con đường mà các Tổ thiền tông đã chỉ dạy. Đó là “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
Kinh nghiệm và trí thức quá khứ ảnh hưởng đến thiền như thế nào?
Khi ngồi thiền mà tư tưởng bị xung đột thì đó cũng là ma cảnh chứ chẳng phải Phật pháp và chúng ta nên khởi sự lại từ đầu. Trong thiền thì nỗ lực không bao giờ là lãng phí cả. Điều nầy có thể so sánh với việc bắn cung. Ai dám bảo 99 lần bắn hụt không liên quan gì đến lần thứ 100 bắn trúng hồng tâm. Điều quan trọng là chúng ta phải biết áp dụng những điều đã học được vào đời sống hằng ngày. Con người sẽ thành đạt bằng những nỗ lực cá nhân không nghĩ của mình để loại bỏ những lý luận trong tâm thức của mình. Đấy là cái bệnh của trí thức. Con người có thói quen suy nghĩ và lý luận nhiều quá nên thấy mình và thế gian bên ngoài là những thực thể khác biệt. Sự vướng mắc lại càng trầm trọng hơn khi chúng ta cố gắng gạt bỏ nó vì vẫn còn sự phân biệt giữa cái bản ngã và cái không phải bản ngã. Phải biết rằng bản ngã chỉ là huyễn, là do sáu thức sinh ra và tứ đại hợp thành.
Cái quan niệm về bản ngã thật ra đã ăn rất sâu vào tiềm thức cá nhân từ kiếp nầy qua kiếp khác, không dễ gì có thể gạt bỏ ngay được. Nhờ sự tập trung vào thiền định, chúng ta có thể dần dần loại bỏ được những vọng niệm nầy. Và khi xóa sạch được nó là kiến tánh. Chính Tổ Huệ Khả nói rằng:”Cố gắng thấy cái Không bằng lý luận thì có khác gì sờ tay vào một tấm vách bằng thép dày nung đỏ”. Vì tất cả những gì có thể lý luận, suy nghĩ hay tưởng tượng được đều phải bị gạt bỏ. Khi đạt được thì mỗi hơi thở đều là Không. Thở ra cũng là Không và hít vô cũng là Không. Tất cả đều là Không. Cứ thế thì con người sẽ hòa nhập vào trong Không lúc nào mà chính mình cũng không biết. Họ sẽ ý thức rằng mỗi tiếng động cũng là Không, tiếng gió thổi, tiếng lá cây rụng cũng là Không, từ cánh cửa đến bức tường cũng đều là Không.
Dựa theo phái Lâm Tế thì họ dùng”công án” để làm đối tượng cho thiền. Công án được thiết lập ra để làm bối rối những kẻ trí thức, những kẻ say mê chữ nghĩa danh từ, lý luận phân biệt. Mục đích của công án là giải phóng cái tâm ra khỏi trò chơi của ngôn ngữ hay cái bẩy của văn tự. Công án thường lấy những đề tài rất giản dị như cây cối, súc vật, sông núi để người ta dễ hiểu và khiêu khích lý trí để đưa ra những giải đáp không thể có được. Nói một cách khác công án vạch trần sự giới hạn của lý trí, của lý luận nhị nguyên và giúp người ta kinh nghiệm được chân lý không thể nghĩ bàn. Sự giải đáp công án chính là sự chuyển hóa tâm đưa nó từ trạng thái mê hoặc đến trạng thái thức tỉnh. Sự quyết tâm chiến đấu với công án chính là sự nỗ lực phá tan xiềng xích của vô minh để đạt đến giải thoát. Chỉ những người đã giải được công án mới có thể hiểu rằng mỗi công án đều có những ý nghĩa rất sâu xa để chỉ rõ bộ mặt thật của con người trước khi sinh ra chớ không giản dị đâu.
Bản tánh của con người thì hay lý luận, suy nghĩ nhiều quá và có lòng tham mong cầu đạt Ngộ. Đây chính là ba chướng ngại đã cản trở công phu tu tập của người tu thiền cho nên dù cố gắng rất nhiều người không đạt kết quả bao nhiêu. Làm sao để khắc phục nó? Có một cách tọa thiền để thực hiện tự tánh. Nó không phải là sự tập trung vào công án để đã phá những lý luận, cũng không phải chỉ đếm hơi thở để chống lại việc đầu óc trống rỗng. Phương pháp nầy đòi hỏi lòng quyết tâm, can đảm và hùng lực. Đó là phương pháp “chỉ quán đả tọa” mà cũng chính là tôn chỉ của phái Tào Động vậy.
Nền tảng của nó là việc ngồi với một lòng tin dũng mảnh, không lay chuyển. Ngồi như Phật ngồi, ngồi với tâm vô cầu vô niệm để thể hiện cái tâm thức Bồ-đề tự nhiên sẵn có. Người ngồi thiền theo phương pháp nầy tin rằng một ngày nào đó chắc chắn họ sẽ đạt Ngộ một cách tự nhiên. Mà ngồi thiền đúng cách là thể hiện chân tánh không ô nhiễm của mình chớ không phải cố gắng để Ngộ. Nhưng nên nhớ kỹ rằng Ngộ vẫn là điều hết sức quan trọng. Có người lý luận sai lầm rằng Ngộ không phải là điều cần thiết. Bởi vì nếu tu thiền mà không đạt Ngộ thì cái đó là thứ thiền gì chứ không phải là thiền Phật giáo. Có nhiều phương cách khác nhau để đạt Ngộ. Đạt Ngộ qua việc tham “công án”, quán hơi thở như ngày xưa Đức Phật đạt Ngộ qua cách ngồi với lòng tin rằng giây phút kiến tánh sẽ đến tự nhiên. Trong “chỉ quán đả tọa” không có phương tiện tức là thiền tọa hay cứu cách tức là giác ngộ. Mà ở đây phương tiện và cứu cánh là một.
Đây là một phương pháp thực hành mà trong đó người tu chỉ tập trung duy nhất vào việc ngồi mà thôi. Vì không có “công án” hay “hơi thở” trợ giúp nên người ta rất dễ sao lãng. Do đó tu theo phương pháp Tào Động nầy nói thì dễ nhưng thực hành lại rất khó. Đây không phải là phương pháp cho người mới tu tập mà chỉ dành cho những người đã có công phu tu tập lâu dài. Đó là những người có thể ngồi lâu mà không mệt mỏi, có thể đếm hơi thở rõ ràng không lầm lẫn vì nó đòi hỏi một sự tập trung cao độ. Vì trạng thái tập trung nầy không thể duy trì lâu dài được nên một thời khóa chỉ nên kéo dài khoảng nửa giờ là nhiều. Và nếu ngồi đúng cách, họ sẽ toát mồ hôi đầm đìa dù dưới mùa đông giá lạnh vì sự tập trung tư tưởng sẽ phát sinh nhiệt. Tuy nhiên trong con đường đạo không có một phương pháp cố định nào để áp dụng cho tất cả mọi người. Mỗi người nên tùy tâm trạng, hoàn cảnh và hạnh nguyện mà lựa chọn phương pháp nào thích hợp cho mình nhất để tu tập.
Vì sự phức tạp của cuộc sống nên chúng ta cũng có thể thực hành cả ba phương pháp. Đó là đôi khi chúng ta cần thực hành “công án” để phá vở những chướng ngại về trí thức, lý luận. Đôi khi cũng cần quán hơi thở để giữ đầu óc minh mẫn, luôn luôn chủ động chớ không để lạc vào trạng thái trống rỗng, thụ động và sau cùng cũng nên thực hành “chỉ quán đả tọa” để thể hiện Phật tánh sẵn có, tránh những mong cầu về Ngộ. Một khi đã ngồi một cách thành kính, không mong không cầu gì nữa mà hoàn toàn để tâm thoải mái thanh tịnh thì dù chúng ta có đạt Ngộ hay chưa thì tự tánh sẵn có cũng vẫn khai mở và thể hiện một cách tốt đẹp. Khi tập thiền thì nên chú trọng tư tưởng vào đan điền vì đó chính là nơi các năng lực tinh thần quy tụ.
Một số người tin rằng óc là nơi trú ngụ của tư tưởng nên khi tọa thiền họ thường tập trung tất cả sức mạnh vào đầu hay giữa trán để mở con mắt tâm, nhưng các thiền sư không đồng ý mà phải bắt đầu nơi đan điền để giữ quân bình cho cơ thể và thiết lập một trung khu ý thức tại đây. Bởi vì nếu tập trung tư tưởng lên óc thì dễ bị nhức đầu, căng thẳng thần kinh, tê liệt cảm giác rồi sinh ra các biến chứng kỳ lạ như thụ động dễ bị các động lực khác sai khiến. Còn nếu tập trung sinh lực vào đan điền tức là phần ở dưới bụng sẽ làm giảm đi các vọng niệm nẩy sinh trong đầu vì máu trên óc được kéo xuống đan điền để xoa dịu bộ óc và hệ thần kinh và làm thuyên giảm các căng thẳng không tự nhiên. Khi tâm lực được giữ chặt ở đan điền thì các vọng niệm ích kỷ vốn xuất phát từ trí óc hạn chế phân biệt sẽ được thay thế bằng các tư tưởng rộng rãi, bao dung khiến con người kinh nghiệm được một cảm giác tự do, thoải mái tràn ngập khắp tâm và thân.
Khi tập trung tư tưởng lên óc một cách quá độ, người ta thường vô tình cúi đầu ra phía trước khiến lưng không được thẳng. Một cái lưng cong sẽ kéo theo vô số tạp niệm nẩy sinh do sự lưu chuyển không bình thường của khí. Những tạp niệm nầy sẽ ảnh hưởng lên hơi thở và sự rối loạn hơi thở sẽ phản ảnh ngược lên thần kinh tạo ra trạng thái căng thẳng không cần thiết. Nếu tập trung vào đan điền người ta dễ ngồi thẳng lưng một cách thoải mái, nhờ thế mà ngồi lâu chân tay không bị tê cứng, đau buốt. Do biết ngồi đúng cách mà các năng lực tinh thần bị lãng phí trước kia và những lý luận thị phi, những toan tính ích kỷ sẽ được xử dụng một cách hài hòa để gia tăng cường lực cho các bộ phận trong cơ thể. Chính sự ngồi đúng cách và thở hít một cách ý thức nầy sẽ tái sắp đặt các năng lực của cơ thể và phân phối nó đi một cách đồng đều làm ổn định tâm thần. Nhờ đó mà tự tánh sẵn có được thể hiện và chuyển hóa nhân cách cũng như cá tính con người và mang lại cho họ một sự an lạc thầm kín, nhẹ nhàng không thể diễn tả được. Như thế thì kiến tánh là kinh nghiệm mà mình có thể sống mãi trong đó, không bao giờ dứt tuyệt.
Vì thế Tổ Tăng Xán đã dạy rằng:”Muốn đạt đạo lớn cũng không khó, chỉ đừng phân biệt thì tự nhiên tâm sẽ sáng ngời. Sai lạc đi một ly, đất trời liền xa cách, chớ nghĩ chuyện ngược xuôi thì hiện liền trước mắt”.
Vì sự quan trọng trong việc phát triển trí tuệ nên không người nào đạt được trí tuệ mà không phát sanh từ thiền định bởi vì nếu tâm không lặng vọng tưởng thì trí tuệ không bao giờ xuất hiện. Không mặt trăng nào sáng khi mây đen còn dầy cho dù mặt trăng vẫn có trên hư không. Cũng như mặt trời chỉ sáng khi nào mây tan hết. Con người thì cũng thế. Trí tuệ thanh tịnh chỉ bừng sáng khi nào vọng tưởng bị dập tắt.
Nói tóm lại phương pháp tu thiền thì không ít tùy theo khả năng, sở thích và hoàn cảnh của mỗi người, nhưng cứu cánh đều đồng nhất, không khác nhau.
Lê Sỹ Minh Tùng
http://thuvienhoasen.org