– Ê! Bắt gặp tại trận có người đang hái hoa lén…
Tôi giật mình quay lại, Ðạt đã đứng đó tự bao giờ… Tôi cười chữa thẹn:
– Xí! Bộ người ta sợ lắm sao?
Cả hai đứa cùng cười, Ðạt hỏi:
– Bữa nay nghỉ học, sao không theo Bác gái đi chợ ăn hàng mà còn ở đây hái hoa?
Tôi đáp:
– Bộ tưởng người ta hay ăn hàng lắm sao… Thôi, tôi về đây…
– Nói đùa chút cho vui, đừng giận…Ðây, cho thêm một cái bông hồng màu vàng đây…Chịu chưa?
Tôi nhanh tay đón lấy cái hoa hồng vàng từ tay Ðạt, rồi quay lưng bỏ đi về phía lan can giữa nhà tôi và nhà Ðạt, để leo trở về nhà mà không nói tiếng nào…
Nhà Đạt và nhà tôi là hai căn phố lầu sát vách nhau, sân thượng nhà Đạt và sân thượng nhà tôi được ngăn ra bởi một hàng lan can bằng song sắt, tuy hơi cao nhưng tôi và Đạt vẫn thường bắt ghế leo qua lại không khó. Đạt và tôi học cùng lớp, tuổi bằng nhau, nhà lại ở sát nhau nhưng chúng tôi không thân nhau lắm, dù Đạt nuông chìu tôi hết lòng…
Biết tôi thích bông hồng, Đạt đi xin ở đâu đó đem về mấy chậu bông hồng và cho tôi có quyền leo qua cắt đem về cắm ở bàn học bất cứ lúc nào… Nên dù có mặt Đạt ở đó hay không, tôi vẫn hái hoa mà không ngại. Có một lần tôi hỏi Đạt:
– Hôm qua thấy một cái bông hồng vàng sắp nở ở đây, sao bây giờ mất rồi?
Đạt cười:
– Cắt cho má Đạt cúng Phật rồi, hôm nay là ngày rằm mà…
Sau này có khi tôi nghĩ lại, lúc đó chúng tôi đều ở tuổi mười bốn, mười lăm, sao Đạt đã mang vẻ… “một ông cụ non” vậy? Ít khi nào tôi thấy Đạt ra khỏi nhà đi chơi, chả mấy khi tôi thấy bạn bè đến với Đạt… Đi học thì thôi, về nhà là ngồi riết ở bàn học, hoặc là nằm trên ghế xếp kê trên sân thượng say mê đọc sách.
Ngược lại, tôi thích đi chơi, đi phố ăn quà, đi cinê, đi tắm biển. Thích nhất là lúc theo gia đình bạn đi picnic mấy đảo nhỏ ngoài khơi. Hai chúng tôi tánh ý trái ngược nhau nên việc học cũng… trái ngược! Đạt lúc nào cũng nhất lớp về tất cả các môn, ngoại trừ môn thể dục là hắn ta đứng bét, mặc dù hắn cũng thuộc hạng lớn vóc. Còn tôi thì…mười người đứng đầu trong lớp chả bao giờ có tên tôi!
Sợ tôi học hành thua sút bạn nên má tôi nhờ cô dạy kèm một tuần ba lần. Ớn nhất là bà cô này họp với Bà vú, lấy gương “Cậu Đạt” ra “lên lớp” tôi mãi không thôi. Những lúc ấy tôi cứ nghĩ thầm là phải chi không có Đạt ở gần bên thì đâu có bị rầy như vậy! Nhưng khi nghĩ lại…có Đạt ở gần bên vẫn hơn, vì tôi còn có chỗ nhờ cậy khi làm bài không kịp để nộp hay bị bí về một bài nào đó… Có một lần tôi vô tình nghe được Bà vú nói to, nói nhỏ với cô dạy kèm cho tôi:
– Tội nghiệp cậu Đạt, nhỏ vậy mà có chí, ham học lại hiếu thảo với Mẹ… Hôm trước, tôi nghe bà Hai má cậu ấy nói cậu ấy muốn vô chùa ở, bà ấy khóc quá chừng. Cậu Đạt là con trai duy nhất mà… Dễ gì bà ấy chịu rời ra… Tôi chưa hỏi cậu ấy vô chùa để làm gì… Không lẽ cậu ấy còn trẻ vậy mà lại muốn đi tu…?
Dù sao thì khi nghe vậy tôi cũng nghĩ thầm… Ông cụ non đó đi tu là phải rồi… Thời gian qua nhanh, mới đó mà đã đến kỳ thi cuối cùng của bậc Trung học…
Rồi những ngày thi đầy căng thẳng cũng đã qua đi… Bữa đi xem kết quả, tôi và đám bạn không ai ngạc nhiên khi thấy Đạt đã đậu hạng ưu… Còn tôi, chỉ cần đậu là tôi mừng… Nhưng người mừng hơn tôi có lẽ là bà vú, vì má tôi lúc sau này đã về quê lo công việc làm ăn…! Tôi đi thi nhưng bà vú lo còn hơn tôi, vì bà ấy đã lỡ nói… “Con thi rớt thì vú trốn luôn, chứ không dám về quê nhìn mặt má con…” Nên khi đã biết kết quả kỳ thi bà hối thúc tôi chuẩn bị về quê, để bà khoe thành tích với má tôi…
Tôi còn đang suy tính không biết có nên theo bà vú về quê nghỉ hè trước khi vào Sàigòn học tiếp hay không, thì một tin… có thể nói là tin động trời do bà vú báo cho tôi biết: Bà Hai, Má của Đạt cho biết là Đạt sắp cưới vợ mà lại cưới gấp… Lúc đầu tôi tưởng là bà vú nói phỉnh tôi cho vui, nhưng khi hỏi lại thì đó là sự thật. Tôi nghĩ, còn một tuần nữa là làm lễ cưới thì chắc người ta đã trù tính lâu lắm rồi… Vậy mà mình ở sát một bên nhà lại không hay biết… Người Đạt sắp cưới làm vợ lại là Nga, người học cùng lớp với tôi và Đạt…
Đồng ý là tôi và Đạt lúc đó đã ở vào cái tuổi mà mấy bà má thường nói là tuổi có thể dựng vợ gã chồng được rồi. Nhưng sao người ta lại gấp rút vậy…! Cũng đồng ý là nhà Đạt thuộc hạng khá giả nhưng chưa có công ăn việc làm, cưới vợ về ăn bám gia đình thì chắc chắn không phải là chuyện tốt. Chả lẽ Đạt lại không biết điều đó? Nhưng thắc mắc của tôi đã được bà vú giải tỏa sau đó vài ngày:
Cô Nga đã có mang cho nên phải cưới gấp, không thôi cái bụng lớn lên càng khó coi và chắc chắn là không nên…
Trước đó, có một thời gian tôi thấy hai người… có vẻ thân nhưng tính tình của Nga hoàn toàn trái ngược với Đạt, vì vậy mà lúc sau này tôi thấy hai người không còn thân thiết như lúc đầu.
Nga là con của Bà Năm bán bánh canh, ở con hẻm phía trong nhà tôi và nhà Đạt chừng một trăm thước. Tôi và các bạn, kể cả Đạt, cũng đều biết Nga thường đi chơi với mấy cô cậu con nhà có tiền, thường đi ăn, đi nhảy đầm, gần như những buổi dạ vũ của các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân bọn Nga đều có mặt… Chính vì vậy mà thứ hạng của Nga trong lớp không khá lắm! Đám cưới Đạt diễn ra trong sự ngạc nhiên của tất cả bạn bè trang lứa, nhưng bà vú và cô giáo dạy kèm tôi thì thất vọng ra mặt.
Tôi nghĩ, vậy cho bà hết nói… “Cậu Đạt cao lớn đẹp trai, tính tình điềm đạm lại học giỏi” để lên lớp tôi… Đạt cưới vợ có hai người hả dạ là Má Đạt và… tôi… Má Đạt thì mừng vì con trai của bà không còn lý do gì để đòi vô chùa nữa, còn tôi thì hả dạ khi thấy bà Vú và cô giáo bị Đạt làm cho…quê độ…
Ngày mai là ngày cưới của Đạt, hôm sau tôi và bà vú sẽ về quê. Tôi đã nói với bà vú nhắn tin cho má hay là chờ dự đám cưới Đạt xong, chúng tôi sẽ về. Tôi dự định sẽ ở suốt ba tháng hè với má, vì khi đã vào Sàigòn có lẽ lâu lắm mới về thăm được. Dĩ nhiên, dù tôi đi đâu thì nếu má không bảo, bà vú cũng sẽ tự nguyện theo sát một bên để làm “thần hộ mạng” cho tôi. Vú gần gũi tôi nhiều hơn má nên tôi thương vú như thương má tôi không khác…
Chiều đó tôi lên sân thượng đưa mắt nhìn bâng quơ qua sân thượng nhà Đạt…Ô kìa, “cậu Đạt” vẫn nằm trên ghế xếp đọc sách như không có chuyện gì. Tôi thật bái phục con người điềm tỉnh quá mức đó. Ngày mai đám cưới mà bây giờ còn có thể bình tỉnh để đọc sách, kể cũng lạ!
Năm tháng trôi qua…Ngày cưới của tôi không mời được Đạt, vì má Đạt đã theo chị lớn của Đạt về sống ở ngoại ô thành phố. Còn Đạt đã dời đi nơi khác trong thời gian tôi ở xa, nhà Đạt bây giờ do người cậu của Đạt ở, tôi và Đạt không còn liên lạc nhau.
Sau này, khi có dịp về lại ngôi nhà cũ, tôi thường ra sân thượng ngắm trăng và nhớ lại những ngày thơ ấu, trong đó có tôi và Đạt… Rồi nhớ lại chuyện đám cưới Đạt…Trên đời thường có những việc xảy ra mà chúng ta không thể ngờ được mà tôi thì hay gặp phải những bất ngờ như vậy!
Mấy năm sau, trong dịp nghỉ phép, tôi dẫn con về thăm ba má chồng tôi, lại đúng vào dịp lễ Vu Lan rằm tháng bảy. Sau một hồi hàn uyên tâm sự má chồng tôi bảo:
– Ngày mai sẽ có một buổi thuyết pháp ở chùa, con có muốn đi đến đó để nghe với má không? Tôi chưa kịp đáp thì bà tiếp:
– Ở chùa gần nhà mình bây giờ có một ông thầy đi học Phật từ Ấn Độ mới về, ông ấy còn trẻ mà giảng pháp hay lắm, ai cũng thích nghe, má đã được nghe mấy lần rồi. Sẵn dịp rằm tháng bảy, ông ấy thuyết giảng về Vu Lan, hai mẹ con mình đi nghe cho biết.
Tôi đáp nhanh:
– Dạ, ngày mai con đi với má.
Đường từ nhà đến chùa không hơn nửa tiếng đồng hồ đi bộ. Bà nói ở chùa có một cái hồ sen rất to, tôi muốn đi sớm để ngắm sen rạng ngời tỏa hương khiết bạch, nhụy vàng tinh anh điểm mấy hạt sương còn lung linh vô nhiễm… Hai mẹ con tôi tới chùa thì mặt trời chưa lên khỏi ngọn cây. Vừa qua khỏi cổng chùa tôi đã sững sờ với một vườn hoa hình tròn đủ các loại, hoa hồng, hoa cúc, hoa lài, hoa thược dược, hoa huệ…v…v… đang khoe sắc quyến rũ giữa không gian, một tác phẩm nghệ thuật thu hút mãnh liệt, tràn đầy năng lượng mê hoặc, lôi cuốn những tâm hồn nhạy cảm kiêu sa.
Sát mặt tiền chùa là một khoảng sân rộng lát gạch đỏ đã rêu phong với thời gian, người ta trưng bày những con thú được uốn bằng cây kiểng thật to, thật đẹp và rất sống động. Ngoài những khóm hoa đang khoe sắc rực rỡ ở mặt tiền, hơi chếch về bên phải là một cái hồ rất rộng toàn hoa sen.
Giữa hồ sừng sửng một tượng Phật Bà Quan Âm màu trắng thanh thoát đứng trên hòn non bộ soi mình dưới mặt nước hồ sen. Có lẽ hòn non bộ này có tuổi bằng với ngôi chùa nên những gộp đá đã phủ úa rong rêu, từ xa nhìn không khác cảnh thật với những tượng đá nhỏ xinh xinh mang hình ngư, tiều, canh, mục. Ngụp lặn trong quang cảnh tuyệt vời chứa chan nguồn thi ca bất tận, tôi không còn để ý đến má chồng tôi đang đi nhanh vào hậu điện vì có ai đó đang vẫy tay gọi.
Hơn một tiếng đồng hồ nữa mới đến giờ thuyết pháp. Tôi vòng quanh hồ ngắm hoa, nhìn toàn cảnh ngôi chùa. Cảnh trí tịch mịch trang nghiêm vì đây là một ngôi chùa cổ. Cổng tam quan và tiền đình được chạm trổ hoa văn là hình tượng kiến trúc xa xưa. Chùa tọa lạc trên khu đất vô cùng rộng, hai bên hông trồng đủ loại cây ăn trái. Phía sau có nghĩa trang nho nhỏ với năm bảy ngôi mả đá được quét vôi trắng, là nơi an nghĩ của các vị sư đã lập chùa.
Đang miên man ngắm sen trắng tinh anh bị cơn gió nhẹ lung lay trên mặt hồ thì mấy tiếng chuông vang lên từ chánh điện. Tôi đi vội vào vì đã đến giờ thuyết pháp, mọi người đã ngồi thứ tự.
Lạ người lạ chỗ, tôi đứng xớ rớ phía sau thì má chồng tôi gọi, tôi nhón chân lách người đi lên phía trước để ngồi gần bà. Bà chưa kịp giới thiệu tôi với một bác ngồi kế bên, có lẽ là quen thân với bà, bỗng mọi người im tiếng và đồng loạt đứng lên. Vị sư trong hậu điện bước ra dáng điệu thật khoan thai. Tôi trố mắt:
– Ô kìa… sao lại là Đạt?
Vị sư trẻ vóc dáng cao với gương mặt trắng hồng đang đứng phía sau bục thuyết trình, tươi cười chào đám đông, không phải là Đạt thì ai vào đây? Vừa lúc đó Đạt cũng trông thấy tôi. Dù cố trấn tỉnh trước đám đông nhưng trên gương mặt Đạt lộ sự ngạc nhiên bất ngờ. Phải rồi, làm sao Đạt ngờ được từ miền Trung xa xôi tôi đã lưu lạc đến tận xứ sở của sông Tiền sông Hậu này. Có lẽ Đạt cũng thấy vẻ ngạc nhiên của tôi nên Đạt nhìn tôi cười thật nhẹ. Không ngạc nhiên sao được vì gần mười năm trước tôi đã dự đám cưới Đạt, vợ Đạt đã có mang trước khi cưới rồi cơ mà… Mặt đối mặt mà trong lòng tôi còn ngờ.
Đạt đang đứng trên bụt giảng, dáng dấp của bậc chân tu uy nghi đạo mạo. Sự kính trọng lẫn thân thiết dâng lên làm tôi đã không ngượng miệng mà xưng hô hai tiếng “Thầy” và “con”. Sau thời giảng pháp, tôi ngồi trong văn phòng tiếp khách. Đầu óc tôi còn dày đặc những hình ảnh xa xưa, tiếng Thầy vang lên kéo tôi về hiện tại. Bây giờ là mùa Vu Lan, nên Thầy giảng rõ ràng, mạch lạc, nhắc nhở các Phật tử về công ơn của đấng sinh thành. Như gương hiếu thảo của ngài Mục Kiền Liên và phương cách báo đáp ơn dưỡng dục của cha mẹ tại thế cũng như quá vãng rồi… Do tập quán xã hội đương thời và nhu cầu tiện nghi vật chất, người ta mãi bon chen danh lợi, thái độ quá hời hợt về hiếu kính ông bà, cha mẹ…
Tiếng Thầy thật trầm ấm lôi cuốn người nghe. Thầy có đề cập đến “Phép lễ lạy 6 phương” nhưng không phải là chủ đề chính hôm nay nên Thầy chỉ nói phớt qua. Tôi hiểu và nhớ đại ý: Khi còn tại thế, có một lần Phật dạy cho thanh niên Bà- La-Môn ý nghĩa của “Sáu phương lễ lạy”.
Thầy nhấn mạnh, lạy Phương Đông không có nghĩa đơn thuần là quay mặt về phương Đông làm lễ, mà để nhắc nhở chúng ta về cách đối xử có đạo đức đối với mẹ cha như: phụng dưỡng cha mẹ chu đáo; giữ gìn tốt gia phong và truyền thống gia đình; không phung phí tài sản do cha mẹ để lại. Khi cha mẹ qua đời, là cơ hội giúp con tu tập chánh niệm phát huy đức tính từ bi và nhẫn nại. Đối lại, cha mẹ cũng dạy dỗ khuyến khích con cái làm điều tốt, ngăn chận không cho làm điều xấu, ác; hướng dẫn con học nghề để nuôi thân; cưới vợ gả chồng khi con đã khôn lớn….
Lễ phương Nam là để nhắc nhở chúng ta cách đối xử có đạo đức, gặp Thầy chào hỏi nghiêm trang kính cẩn, siêng năng học tập, phục vụ Thầy hết lòng nếu cần. Ngược lại, Thầy cũng phải có bổn phận và trách nhiệm đối với học trò, đem hết kiến thức của mình tận tình trao truyền.
Lễ phương Tây là để nhắc nhở chúng ta về cách đối xử có đạo đức giữa vợ chồng: Bổn phận làm chồng phải biết tôn trọng vợ, không nên tỏ ra bất kính đối với vợ; để cho vợ nắm giữ quyền hành trong nhà; trung thành, chung thủy với vợ v.v… Ngược lại, người vợ cũng phải làm hết bổn phận của mình đối với chồng; Đối đãi tốt với bà con họ hàng nhà chồng; giữ gìn tốt tài sản; trung thành, chung thủy với chồng; hoàn tất công việc nội trợ một cách tốt đẹp v.v…
Lễ phương Bắc là để nhắc nhở chúng ta về cách đối xử với bạn bè: Đã là bạn bè thì phải biết hổ tương đối đãi nhau cho có đạo đức như giúp đỡ bạn khi cần; nói với nhau bằng những lời ôn tồn; làm mọi việc có lợi cho bạn; không lường gạt bạn; khi gặp hiểm nguy không né tránh; kính trọng gia đình bạn v.v…
Lễ lạy phương dưới cho đúng cách là đối xử đạo đức với kẻ làm công, phục vụ cho mình chẳng hạn như: Khi giao công việc phải tùy theo sức cáng đáng công việc của người làm; tạo điều kiện ăn uống thích hợp, công bằng, trả tiền công hợp lý; biết chia xẻ vui buồn…v.v… Ngược lại đối với người làm công phục vụ cho người khác cũng phải biết khéo làm mọi công việc được giao phó; giữ gìn thanh danh cho chủ; thức dậy trước khi chủ thức, đi ngủ sau khi chủ đã ngủ v.v…
Sau hết lễ lạy phương trên là nhắc nhở chúng ta về phép đối xử đạo đức với các vị đã tu hạnh xuất thế gian: Các hành động nơi thân, lời nói và ý nghĩ phải thể hiện bằng lòng từ; đem hết lòng thành hiến dâng những vật dụng cần thiết để cúng dường… Ngược lại các bậc xuất gia cũng có bổn phận đối với mọi người như: Ngăn chận, khuyên răn không làm điều ác; khuyến khích làm điều thiện; thuyết pháp bằng tâm từ bi; chỉ bày phương pháp tu tập…v.v…
Buổi thuyết pháp chấm dứt, những câu hỏi do các Phật tử đưa ra đều liên quan tới Vu Lan và Báo Ân. Thầy đã trả lời thỏa đáng và dễ hiểu làm mọi người rất hài lòng. Sau đó Thầy thay mặt nhà chùa mời Phật tử xuống trai đường dùng cơm chay. Tôi nôn nóng muốn hỏi thăm Đạt nhiều điều nên cố tình trì hoãn đi sau cùng. Đạt hình như đã hiểu được nên bước về phía hai mẹ con tôi. Tôi chấp tay cúi đầu chưa kịp lên tiếng chào thì Đạt đã nhanh miệng:
– Không gặp lâu quá mà trông chị chẳng thay đổi gì nhiều.
Tôi giới thiệu:
– Đây là bà nội của mấy cháu…
Cả má chồng và Đạt đều ngạc nhiên nhìn tôi, Đạt cười vui:
– Không ngờ Bác đây lại là chỗ thân tình…
Má chồng tôi cười:
– Cũng may, tôi rủ nó đi nghe pháp chớ nếu không thì nó đâu có biết Thầy đã về đây…
Đạt hướng mắt về phía sau và nói:
– Mời Bác và chị xuống trai đường dùng cơm chay rồi lên văn phòng sẽ nói chuyện nhiều.
Tôi và má chồng cúi đầu chào Thầy rồi bước xuống trai đường…
Hôm nay là ngày lễ lớn, Phật tử các nơi trong vùng tề tựu về chùa rất đông nên trai đường không đủ chỗ ngồi. Hai mẹ con tôi lại vào sau, mỗi người một dĩa cũng như một số người ra ngồi trên các băng ghế đá trong vườn, sau chùa, dưới bóng cây mát rượi.
Tuy trong lòng đang có nhiều thắc mắc về Đạt nhưng tôi cũng thưởng thức được bữa cơm chay thật ngon. Mẹ chồng tôi thì tỏ ra rất quý Thầy, luôn miệng tán thán Thầy trẻ mà rất đạo mạo, học cao hiểu rộng, quan tâm gần gũi giúp đỡ Phật tử tận tình.
Tôi kể cho bà nghe về tuổi thơ của tôi và Đạt… Sau bữa cơm mẹ chồng tôi bảo:
– Con đi gặp Thầy, má cần bàn một số công việc với mấy bà trong bếp…
Cửa văn phòng không đóng cho nên vừa thấy tôi Đạt cười và bảo:
– Mời chị vào đây…
Ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trước bàn viết của Đạt. Căn phòng trưng bày đơn giản như tính tình của Đạt ngày xưa. Ngoài tủ kinh sách và bàn viết đủ để một khay trà, một bình bông nhỏ mà ai đó vừa mới thay mấy cành hồng, chỉ có một chiếc ghế duy nhất dành cho khách là tôi đang ngồi. Đạt thích đến với người ta hơn là chờ người ta tìm đến với Đạt. Sau một hồi xã giao, Ðạt như đọc được ý nghĩ của tôi, nhìn tôi cười nhẹ và nói lại điều mà Đạt đã nói khi nãy:
– Chị thật không thay đổi gì… dù đã có gia đình, có cháu bé rồi, mà tánh vẫn nóng nảy như xưa. Nhìn chị, tôi biết chị ngạc nhiên và nóng lòng muốn biết về chị Nga lắm phải không?
Nghe Đạt nói tôi nghĩ thầm: Sao lại là “chị Nga”? Hồi trước Đạt cưới Nga, tôi có dự đám cưới mà? Nhưng tôi không phải thắc mắc lâu, Đạt nói tiếp:
– Chị thắc mắc cũng phải thôi, vì tôi không tiết lộ cho ai biết kể cả má tôi, làm bà già giận và buồn tôi không ít.
Thình lình Đạt hỏi:
– Chị có còn nhớ anh Trí không? Tôi gật đầu và nói:
– Có phải anh chàng Trí ưa lái xe jeep mỗi chiều đến cổng trường, tụi này thường quở cái mặt anh chàng có vẻ như đểu đểu đó không?
Đạt đưa tay chận tôi:
– Chị không nên xét đoán bề ngoài…
Tôi tự mỉm cười, nghĩ rằng không hiểu sao từ nhỏ cho đến bây giờ, lúc nào tôi cũng cảm thấy bị lép vế với Đạt. Đạt có thể “rầy” tôi bất cứ lúc nào… Chợt có tiếng con chim sâu ríu rít trên cây mận ngoài kia, Đạt đưa mắt mông lung nhìn ra cửa sổ như cố nhớ lại dĩ vãng và kể tiếp:
– Hồi đó anh Trí và chị Nga thương nhau, chị Nga đã có mang với anh Trí gần hai tháng rồi mà gia đình anh Trí lại nhất quyết không chịu cưới chị Nga cho anh Trí… Chị cũng biết mà, tánh tình như chị Nga thì mấy ông bà già đời nào lại chịu cưới về làm dâu.
Chuyện còn chưa giải quyết được thì má chị Nga lại lâm bệnh nặng, nếu bà biết được con mình vừa thi rớt, vừa có mang thì sợ bà không chịu đựng nỗi, nên anh Trí và chị Nga tìm tới tâm sự với tôi, có ý nhờ tôi tìm cách giúp vì nếu để lâu thì không thể giấu. Dù sao thì tình bạn của tôi và chị Nga cũng còn đó, sở dĩ trước kia tôi kết bạn với chị Nga cũng vì muốn kéo chị ấy trở về với việc học, đừng chạy theo những người ham vui mà thôi… Nghe họ kể lể, tôi có cái ý nghĩ hơi ngộ nghĩnh là tôi sẽ làm đám cưới với chị Nga, sau đó sẽ giải quyết tiếp… Tôi bắt hai người hứa chắc với tôi là phải cố gắng ăn ở với nhau… Đám cưới xong tôi đưa chị Nga vào Sài gòn, còn anh Trí thì thu xếp với gia đình rồi xin thuyên chuyển vào sau. Riêng phần tôi đã chọn đường đi, nên khi chuyện của anh Trí và chị Nga tạm ổn, tôi vào chùa xin xuất gia… Tội nghiệp cho má tôi, tôi đã giấu bà.
Tôi chận lời Đạt:
– Sao Thầy…
Không cho tôi nói hết câu, Đạt đỡ lời:
– Chị đừng trách tôi, tôi nói là tôi giấu bà tức là tôi không nói chớ không phải là tôi dối bà, vì nếu phải nói thì tôi sẽ nói thật cho nên trong hai năm sau đó tôi chỉ liên lạc thư từ chớ không về thăm. Còn chuyện tôi xuất gia, tôi cũng không tiết lộ vì tôi biết bà nghĩ rằng nếu tôi xuất gia đi tu thì coi như bà đã mất tôi, nên trong những lá thơ gởi về, tôi đã chuẩn bị tinh thần cho bà rất kỹ. Vậy mà bà cũng buồn và trách tôi nhiều, tôi về thăm bà trước khi lên đường sang Ấn Độ để tu học… Sau đó có lẽ nhờ những lá thư dài của tôi từ Ấn Độ gởi về nên bà đã thay đổi. Khi tôi tốt nghiệp trở về thì bà đã không còn buồn nữa và bây giờ bà đã trường chay, sớm tối kinh kệ tại gia…
Những dịp lễ Tết anh Trí và chị Nga thường đưa cháu Bảo Châu về thăm bà để tỏ lòng biết ơn đối với tôi… Nhưng chị cũng nên biết chuyện ơn nghĩa để mãi trong lòng không tốt…
Sau lần gặp lại ấy, tôi thấy gần gũi và kính phục Đạt hơn. Từ đó mỗi khi có dịp về thăm quê chồng là tôi đến Chùa lễ Phật và thăm Ðạt, tôi học hỏi ở Đạt thật nhiều. Chính Đạt đã mở cho tôi con đường tìm về với giáo lý Phật, đó là một thiện tri thức của tôi…
Thời gian qua nhanh… Tôi đã dẫn hai con trở về quê cũ ở miền Trung cũng được gần hai năm rồi… Về nhìn cảnh cũ tôi lại nhớ “Thầy Đạt” và những ngày xưa…
Một hôm sau khi đưa hai con đến trường, trở về nhà tôi thấy có người mặc quân phục đang đứng trước cửa nhìn vào trong như đang tìm ai. Tôi bước tới định hỏi thì người đó quay lại…
Tôi sững sốt, sao lại là Đạt? (Con người này mang lại cho tôi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác!) Không để cho tôi ngạc nhiên lâu hơn nữa, Đạt lên tiếng trong khi cả hai chúng tôi đi qua cái sân nhỏ để vào nhà:
– Sẵn dịp đi công tác miền Trung, tôi ghé nhà thăm cậu thì cậu tôi nói chị đã về đây từ năm ngoái, tôi sang đây thăm chị…
Tôi mời Đạt vào nhà, tận tay đưa cho Đạt ly nước mát, tôi vẫn còn chưa hết ngạc nhiên và nghĩ thầm… Tướng Đạt cao lớn, mạnh khỏe lại đóng bộ quân phục với hai bông mai vàng óng ánh trên cổ áo, trông rất oai phong lẫm liệt, nếu đầu không trọc có lẽ khối cô mê mệt… Qua câu chuyện tôi biết được Đạt đã vào quân đội và là một Tuyên úy Phật giáo với quân hàm Trung úy. Lần này sẵn đi công tác ngang đây nên ghé thăm nhà. Vì vậy chúng tôi chỉ có đủ thì giờ hỏi thăm nhau qua loa rồi Đạt lại đi, Đạt gởi lời thăm má chồng tôi, từ giả ra xe, Đạt đến và đi như một cơn gió thổi…
Việt Nam mấy tháng đầu năm 1975 là thời gian rất căng thẳng, ai cũng cảm thấy ngột ngạt, tình hình chiến sự thật bi đát. Mọi người ở lứa tuổi của tôi đều biết nhưng đó không phải là đề tài của bài viết này, nên tôi xin trở lại với thiện tri thức của tôi!
Trong lúc muôn người như một đều bị dằn vặt giữa hai tiếng “đi” và “ở” thì Đạt đã tìm tới thăm tôi. Thời gian đó chồng tôi không mấy khi có mặt ở nhà vì anh cũng là một sĩ quan trong quân đội. Sau một hồi trò chuyện, Đạt hỏi gia đình tôi có tính chuyện gì không? Tôi hiểu ý Đạt nên tôi nói:
– Chúng tôi không có ý định ra đi, chồng tôi nói, anh đã từng sống ở nước ngoài nhiều năm nên anh thấy rằng sống ở đâu đi nữa, cho dù vật chất có thừa thải cũng không bằng sống trên quê hương của mình. Hơn nữa, nếu thật sự nước nhà có hòa bình thì lại càng nên ở lại để đem tài sức ra góp một tay xây dựng đất nước…
Đạt cũng tán đồng ý đó. Nhưng tiếc thay! Khi đất nước đã hòa bình (cứ cho là như vậy) thì những tấm lòng yêu nước đặt không đúng chỗ, những trái tim nhiệt tình với đất nước bị coi là đập sai nhịp, đã bị dồn vào những trại tập trung thành những người tù không bản án! Trong số đó có chồng tôi và Đạt!
Sau mấy tháng không nhận được tin tức của chồng, tôi bắt đầu lo và cũng bắt đầu tập nói láo như họ (VC) để nói với… các con, để an ủi chúng là ba chúng sẽ về… sẽ về…!
Rồi vào một buổi chiều, bộ đội VC đến gõ cửa nhà tôi, khi thấy tôi ra anh ta hỏi:
– Có phải chị là người nhà của Thầy Giác Không không?
Tôi nói “phải”, người bộ đội đó đưa cho tôi một gói giấy rồi lên xe đạp đi ngay… Tôi vội vã trở vào nhà mở ra xem, thì ra trong gói giấy đó có một hộp sữa đặc, nửa kí đường và mảnh giấy nhỏ với dòng chữ ghi vội:
– Quà này cho hai cháu, có gặp ba của Bé lúc đi lao động bên ngoài, trông vẫn khoẻ.
Không biết vì vội vàng hay vì bị ra điều kiện mà Đạt không cho tôi biết địa điểm để đi thăm, đó mới là điều tôi cần…? Cũng có thể Đạt sợ rằng nếu tiết lộ địa điểm rồi tôi sẽ nóng ruột dẫn con đi thăm thì sẽ rắc rối.
Quả thật, sáu năm sau, khi Thầy được thả về, tôi hỏi thì Thầy nói vì lý do an toàn cho tôi, nhất là không gây nguy hiểm cho chồng tôi trong trại… và Thầy cũng cho biết Thầy đã “tặng” cho tên bộ đội cái đồng hồ đeo tay của Thầy, nó mới chịu đem quà đi như vậy… Tôi trách Thầy sao không để lại mấy thứ đó mà dùng cho có chất bổ. Thầy cười bảo:
– Các cháu cần hơn, ở nhà chùa tôi ăn chay quen rồi, vô tù cũng ăn chay ngày hai bữa cơm rau và…nước muối, đâu có khác gì nhau nên tôi chịu được.
Đến với tôi, Thầy đều đem cho tôi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ chuyện cưới vợ giùm, chuyện đi tu, chuyện vào quân đội cho tới chuyện…người ở trong tù lại gởi quà thăm nuôi người bên ngoài!
Ngày Thầy đến thăm mẹ con tôi khi vừa ra tù, tôi đã mời Thầy ở lại dùng cơm với ba mẹ con tôi. Thầy vui vẻ nhận lời nhưng tôi không nghĩ Thầy nhận lời vì câu nói của tôi:
– Nhà con cũng chỉ cơm rau chớ không có thịt cá gì cả…
Thầy đã ở lại với ba mẹ con tôi cho đến chiều, Thầy dặn dò tôi đủ thứ, nghe Thầy nói mà tôi có cảm tưởng là tôi được Thầy ban cho một bài pháp…
– Đã là người con Phật, dù có đi chùa hay không cũng nên giữ năm giới thì không khác nào có Phật bên mình… Phải nhớ và coi câu niệm Phật là cái phao sẽ giúp mình trong mọi cảnh trái lòng…
Phải dạy bảo con cái cho nghiêm, đừng vì chúng không có cha lúc này mà chiều chuộng con quá đáng sẽ tạo thói quen không tốt sau này… Trong hoàn cảnh nào cũng phải chu toàn bổn phận làm con, làm dâu. Nhất là đối với bên chồng, đừng để người ta nghĩ rằng người ta đã mất con bây giờ lại mất dâu và mất cháu… Vắng chồng người vợ đau khổ một, chứ bậc cha mẹ đau khổ mười… Phải chung thủy và phải biết an ủi chồng, mang thân tù tội đã khổ rồi nếu gây thêm cái cảm tưởng bị vợ ruồng rẫy thì sẽ khổ đến bực nào… Nhất là sau này khi anh ấy mãn tù về, hoàn cảnh xã hội đã đổi khác, cái oai hùng của một phi công khu trục không còn, anh sẽ có mặc cảm là người sống bên lề xã hội thì đừng gây tạo thêm cho anh ấy có cái mặc cảm sống bên lề gia đình…
Thầy nói rất nhiều, nghe Thầy nói mà xúc động trào dâng trong tôi và nước mắt tôi đã chảy ra khi nào tôi cũng không hay biết. Nếu hai con tôi đi học chưa về tới thì có lẽ tôi sẽ để như vậy chứ không buồn lau nước mắt… Tôi cảm động quá! Thầy cho biết, vì hoàn cảnh của Thầy lúc này không trở lại chùa được cho nên mai này Thầy sẽ tìm một nơi vắng vẻ để tu. Nếu có duyên thì sau này sẽ còn cơ hội gặp lại nhau… Trước khi chia tay Thầy trao cho tôi một số tiền và nói là để tôi lo cho hai cháu. Thầy cũng cho biết đó là tiền của gia đình Thầy từ ngoại quốc chuyển về, để Thầy làm phương tiện vượt thoát ra nước ngoài. Nhưng Thầy vẫn không có ý định ra đi và Thầy cũng không cần phải giữ nhiều tiền bên mình. Thầy nói đùa:
– Làm thầy chùa mà giữ tiền chi cho nhiều…
Nhìn dáng Thầy thong dong bước ra khỏi cửa, lòng tôi buồn vô hạn. Tôi cảm thấy như có một cái gì trân quý đang rời khỏi tầm tay… Thế rồi từ đó về sau tôi không còn gặp lại Thầy hay nghe tin tức gì về Thầy…
Bây giờ thân mang cuộc sống ly hương có đủ điều kiện hằng đêm tới chùa tụng niệm, rồi nghĩ về những điều Thầy đã dạy trước đây, lòng tôi vẫn còn bồi hồi cảm động.
Hôm nay ngồi ghi lại câu chuyện này để nhớ về một người bạn thời thơ ấu và cũng là một người Thầy lúc trưởng thành… Tôi thầm cám ơn Chư Phật đã đưa duyên cho tôi để những lúc gặp cảnh trái lòng, khổ sở đến cùng cực đều có người tốt đến giúp đỡ và chỉ vẽ cho tôi giữ vững tinh thần đi đúng con đường của người con Phật.
Đối với tôi, Thầy Giác Không là một Đại Bồ Tát, đến hay đi không thấy dấu…
Diệu Ngọc
(Bài này ghi lại một câu chuyện thật nhưng tên các nhân vật đã được đổi khác. Tuy nhiên nếu có một trùng hợp nào thì đó là ngoài ý muốn của người viết. DN)