Bài Tụng SANDOKAI (Tham Đồng Khế)

Trong mỗi buổi lễ hàng ngày, các thiền viện thuộc tông Tào Động (Sōtō Zen) Nhật Bản đều có tụng bài Sandōkai, như vậy cho thấy rõ tầm quan trọng của bài tụng này trong tông phái Tào Động. Nhiều thiền sư Nhật đã giảng và viết về bài đó một cách kỹ lưỡng để các thiền giả hiểu rõ ý nghĩa.

Nguồn gốc bài tụng Sandōkai

Bài tụng Sandōkai, 參同契 (Cantonqi, Tham đồng khế), do thiền sư Trung hoa Thạch Đầu Hy Thiên sáng tác. Bản chữ Hán gồm 220 chữ, mỗi dòng 5 chữ. Vì tầm quan trọng của bài này nên nhiều tác giả Nhật đã dịch ra tiếng Nhật và tiếng Anh.

Sau đó khoảng 100 năm, Động Sơn Lương Giới (Nhật: Tōzan Ryōkai, 807-869), đệ tử đời thứ ba của Thạch đầu, và là một trong hai vị khai tổ của tông Tào Động, viết bài tụng “Động sơn ngũ vị”, cùng một ý hướng với bài Sandōkai. Hai bài tụng này được coi là căn bản của tông Tào Động. Tổ Động Sơn còn trước tác bài “Bảo kính tam muội” (宝 鏡 三 昧 Nhật: Hōkyō zanmai, Precious mirror samadhi) và bài này cũng được các thiền viện tông Tào động tụng mỗi ngày cùng với bài Sandōkai. Bài Bảo kính tam muội đã được HT Thích Thanh Từ dịch trong cuốn Thiền sư Trung Hoa, tập 2. Cùng nên lưu ý là đạo Lão cũng có một bài tên Tham đồng khế, cùng tên với bài này.

Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên

__________________________

Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên (tên Trung hoa: Shitou Xiqian, tên Nhật: Sekitō Kisen, 700-790, có nơi ghi là 695-785), lúc mới xuất gia đã đến xin thọ giáo Lục tổ Huệ Năng, tuy được chấp nhận nhưng không bao lâu thì Lục tổ tịch nên theo lời chỉ dẫn của Lục tổ, đến thọ giáo thiền sư Hành Tư tại núi Thanh nguyên.

“Thiền sư Hành Tư hỏi Thạch Đầu:
– Ngươi phương nào đến?
Thạch Đầu thưa:
– Con từ Tào Khê đến.
– Đem được cái gì đến?
– Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
– Mặc tình dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
– Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất.”

“Sau đó sư đến Hoành Nhạc tại Nam Tự, cạnh chùa phía đông có gộp đá cao giống như cái đài, Sư lên đó cất am tranh ở. Thời nhân kính trọng Sư nên gọi là Hòa thượng Thạch Đầu.

Sư dạy chúng: “Pháp môn của ta do Phật trước truyền trao, không luận thiền định tinh tấn, chỉ đạt Tri kiến Phật, tức tâm tức Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ đề, phiền não tên tuy khác mà thể vẫn đồng. Các ngươi nên biết, thể tâm linh của mình lìa tánh đoạn và thường, không phải nhơ sạch, lặng lẽ tròn đầy, phàm thánh ngang bằng nhau, ứng dụng không lường, lìa tâm ý thức, ba cõi sáu đường chỉ do tâm mình hiện, như trăng đáy nước, bóng trong gương, đâu có sanh diệt. “(Thiền sư Trung hoa, tập 1)

Sư có trước tác bài “Tham đồng khế” (Sandōkai) và bài “Thảo am ca”.

Thời đó thuộc nhà Đường và được coi là thời kỳ hoàng kim của thiền tông Trung hoa. Kể từ khi tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa cho đến cuối thế kỷ thứ 7 nhờ có Lục tổ Huệ Năng nên thiền tông có một nền tảng vững chắc và phát triển mạnh mẽ. Lục tổ có 43 đệ tử đắc pháp, đến đời đệ tử thứ hai thì có 2 vị xuất sắc và đã khai mở 2 dòng phái khác nhau là Thạch Đầu và Mã Tổ. Trong khi Thạch Đầu Hy Thiên khai hóa ở Hồ Nam thì Mã tổ Đạo Nhất truyền dạy ở Giang Tây, đó là hai cột trụ thời đó. Các thiền giả thường đến tham vấn cả hai vị đó để học hỏi. Thí dụ điển hình là cư sĩ Bàng Uẩn theo học cả hai vị đó và đã chứng ngộ.

” Ông (Bàng Uẩn) đến yết kiến Hòa Thượng Thạch Ðầu, hỏi: ” Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?”
Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu hỏi :” Từ ngày ông thấy lão tăng đến nay, hàng ngày ông làm việc gì?”. Ông thưa :” Nếu hỏi việc làm hàng ngày tức không có chỗ mở miệng”.
Ông liền trình bài kệ :

Hàng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ, lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài.

Thạch Ðầu hứa khả, bảo :” Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia ?”.

Ông thưa :” Xin cho con theo sở nguyện, không cạo tóc xuất gia.”

Sau buổi tham vấn đó, hòa thượng Thạch Ðầu ấn chứng ông Bàng Uẩn đã ngộ đạo. Sau đó ông theo học với Mã Tổ:

” ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi: ” Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì ?”. Mã Tổ bảo :” Ðợi miệng ông hút hết nước sông Giang Tây, ta sẽ nói với ông”. Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ hai năm.”
(Thiền sư Trung Hoa, tập 1)

Mã Tổ nổi tiếng vì ba câu: “Tức tâm tức Phật”, “Phi tâm phi Phật” và “Phi vật”.

Thạch đầu đã khai mở tông Tào Động, còn đệ tử của Mã Tổ đã lập nên tông Lâm Tế, là hai tông phái phát triển mạnh cho đến ngày nay. Tổng số đệ tử chứng ngộ của hai vị này lên tới 150 người nên đã đóng góp lớn lao cho việc phát triển Thiền tông đời Đường. (Book of Serenity, Tụng cổ bách tắc).

“Đến ngày rằm tháng chạp niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ sáu (785 T.L.), sư Thạch Đầu viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi ba tuổi hạ. Vua sắc ban là Vô Tế Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.”

Theo cuốn Denkōroku (The record of the Transmission of the Light, Truyền Quang Lục) do thiền sư Keizan viết, thì Thạch Đầu được ghi là vị tổ Thiền tông thứ 35 theo bảng truyền thừa Phật pháp, kể từ đức Phật Thích Ca, và tính từ vị tổ thứ nhất của Thiền tông là Ma Ha Ca Diếp. Thiền sư Keizan (Oánh Sơn, 1268-1325) là vị tổ thứ tư của tông Tào Động Nhật nên bảng truyền thừa đó lập theo tông Tào Động, vì vậy không ghi về các tổ của tông Lâm Tế. Cuốn này quan trọng trong việc tu học vì ghi rõ tiến trình tu chứng của từng vị tổ, nên rất hữu ích.

Bài tụng Sandōkai (Tham đồng khế): 
(Thượng tọa Tuệ Sỹ phiên âm và dịch Việt)

Phiên âm 
Trúc độ Đại Tiên tâm
Đông tây mật tương phú
Nhân căn hữu lợi độn
Đạo vô Nam Bắc Tổ
Linh nguyên minh hạo khiết
Chi phái ám lưu chú
Chấp sự nguyên thị mê
Khế lý diệc phi ngộ
Môn môn nhất thiết cảnh
Hồi hỗ bất hồi hỗ
Hồi nhi cánh tương thiệp
Bất nhĩ y vị trụ
Sắc bản thù chất tượng
Thanh nguyên dị lạc khổ
Ám hiệp thượng trung ngôn
Minh minh thanh trược cú
Tứ đại tánh tự phục
Như tử đắc kỳ mẫu
Hỏa nhiệt phong động dao
Thủy thấp địa kiên cố
Nhãn sắc nhĩ âm thanh
Tỉ hương thiệt hàm thố
Nhiên y nhất nhất pháp
Y căn diệp phân bố
Bản mạt tu quy tông
Tôn ty dụng kỳ ngữ
Đương minh trung hữu ám
Vật dĩ ám tương ngộ
Đương ám trung hữu minh
Vật dĩ minh tương đổ
Minh ám các tương đối
Tỉ như tiền hậu bộ
Vạn vật tự hữu công
Đương ngôn dụng cập xử
Sự tồn hàm cái hợp
Lý ứng tiến phong trụ
Thừa ngôn tu hội tông
Vật tự lập quy củ
Xúc mục bất hội đạo
Vận túc yên phi lộ
Tiến bộ phi cận viễn
Mê cách sơn hà cố
Cẩn bạch tham huyền nhân
Quang âm mạc hư độ
Dịch Việt 
Tâm Đại Tiên Tây Trúc
Mật truyền Đông và Tây
Căn tính có bén lụt Đạo
không có Tổ Bắc, Nam.
Nguồn linh sáng trong veo
Chi phái thầm tuôn trào
Chấp sự vốn mê muội
Khế lý đã ngộ đâu.
Cửa cửa và mọi cảnh
Giao hỗ không giao hỗ
Giao hỗ dẫm lên nhau
Chẳng thế, y chỗ đứng.
Sắc vốn khác tượng, chất
Thanh cùng phi khổ lạc
Ngầm hợp lời thượng, trung
Sáng tỏ câu trong đục.
Hoàn nguyên tính bốn đại
Như con tìm được mẹ
Lửa nóng, gió động lay
Nước ướt, đất cứng dày.
Mắt, sắc, tiếng với tai
Mũi hương, lưỡi mặn chua
Nhưng y mỗi mỗi pháp
Y gốc, lá phân lớp.
Gốc ngọn phải về tông
Tôn, ti, dụng ngữ riêng
Ngay chỗ sáng có tối
Chớ để tối gặp nhau.
Trong tối có ánh sáng
Chớ để sáng nhìn nhau
Sáng và tối, đối nhau
Như bước chân trước sau.
Vạn vật công riêng
Ngay lời, là chỗ dụng
Sự lưu, như hộp đậy
Lý như mũi tên ghim.
Nương lời thấu rõ tông
Chớ tự lập quy củ
Mắt chạm không rõ đường
Vần bước nào hay lối.
Tiến bước chẳng gần xa
Mê thì cách núi sông
Cẩn bạch người theo học lẽ huyền
Chớ để thời gian luống trôi qua.

Ý nghĩa bài tụng

Tên bài tụng

Bài tụng này ý nghĩa sâu xa nên khi các tác giả dịch ra Anh văn, thường chỉ dịch tên bài tụng theo ý chứ không dịch hẳn danh từ Sandōkai. Nhiều tên đã được dùng như: Sự hòa hợp giữa sai biệt và đồng nhất, Sự hòa hợp giữa sai biệt và bình đẳng, Sự hợp nhất giữa sai biệt và đồng nhất, Tánh tương tức giữa tương đối và tuyệt đối vv…

D.T. Suzuki viết: “Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học Viên Dung Vô Ngại do Hoa nghiêm chủ xướng, và họ cố gắng kết nạp nó vào trong những bài giảng của mình. Chẳng hạn, Thạch Đầu (699-790) trong Tham đồng khế, miêu tả tính cách tương giao của Sáng và Tối như là hạn chế lẫn nhau và đồng thời hòa hợp nhau. Động Sơn (806-859), trong một đoản văn chỉnh cú gọi là Bảo kinh tam muội ca, giảng giải về tính cách tương giao của thiên (lệch) và chính (ngay), phần lớn có công dụng như của Thạch Đầu, vì cả Thạch Đầu và Động Sơn đều thuộc về phái Hành Tư (tịch 740) được gọi là phái Thiền Tào động. (Thiền luận, quyển hạ).

Như vậy cho thấy bài tụng Sandōkai đã theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, với những lời giảng qua quan niệm của Thiền tông. Để hiểu rõ hơn về tinh thần bài tụng Sandōkai xin trích dẫn các bài giảng của hai thiền sư thời nay thuộc tông Tào động Nhật để biết về việc tu hành của tông này qua tư tưởng của bài tụng.

*
 

Thiền sư Shunryu Suzuki

Thiền sư Nhật Shunryu Suzuki (1904-1971) là đệ tử của thiền sư Gyokujun So-on. Sư đến Mỹ năm 1959, ngụ tại San Francisco và lập nên Trung tâm Thiền tại đó. Đến năm 1969 sư lập Thiền viện đầu tiên ở Mỹ tại Tassajara Springs, California. Sư giảng dạy theo tông Tào Động của Dōgen (Đạo Nguyên) (1200-1253) là sơ tổ tông Tào Động Nhật. Sư có trước tác cuốn “Zen Mind, Beginner’s Mind” (Thiền tâm, Sơ tâm) rất nổi tiếng, đã bán được hơn một triệu cuốn.

Cuốn sách được giới thiệu sau đây là: “Branching streams flow in the darkness, Zen talks on the Sandōkai“, gồm mười hai bài giảng của sư về bài tụng Sandōkai trong sáu tuần lễ của mùa hè 1970 tại Tassajara. Các thiền sinh đã thâu băng và viết lại thành cuốn sách đó. Tên cuốn sách được lấy từ câu: “Chi phái ám lưu chú” (Những dòng suối chảy trong bóng tối).

Trước hết thiền sư Suzuki giảng về tên của bài tụng:

“San”, (tiếng Nhật) có nghĩa là 3, nhưng ở đây có nghĩa là “vật, pháp”. “Dō” là đồng nhất, cũng có nghĩa là “chân tâm”. Như vậy có thể hiểu là: “chân tâm bao gồm vạn pháp” và “vạn pháp đều ở trong chân tâm”. Để nói thêm về sự tương giao giữa chân tâm và vạn pháp nên dùng chữ “kai”. Kai là hai bàn tay nắm lấy nhau, chứng tỏ sự thân thiết giữa hai người như một. Chẳng những chứng tỏ chân tâm và vạn pháp như một mà vì chúng bản nguyên là một.”

Sư nhấn mạnh là Thiền (Zen) tức là phải thấy vạn pháp như thật.

“Chúng ta chỉ “thấy” với cái tâm phân biệt tốt/xấu, đầy thành kiến, suy tính cho nên đức Phật chỉ rõ là cần phải buông bỏ cái tâm đó thì mới thấy vạn pháp như thật được. Nhưng “buông bỏ” không có nghĩa là diệt chúng, hay dẹp bỏ chúng, mà có nghĩa là phải coi chúng như là những dữ kiện (data) để thấy “như thật”. Khi tọa thiền là ngồi với cái Tâm bao gồm muôn pháp đó. Tọa thiền không phải là mong cầu đạt mục đích gì, chỉ biết ngồi (just sit) mà không bị phiền não vì bất cứ chuyện gì xảy ra. Cũng như khi có chim bay trong bầu trời thì bầu trời coi đó như thường, không có phiền não, bực tức.

“Khi tọa thiền dù có những ý nghĩ tự nhiên xuất hiện thì cũng vẫn biết, nhưng không chạy theo chúng là đủ, không cần cố công trừ diệt chúng. Còn nếu có ý định dẹp bỏ hoặc cố gắng để không có nghĩ gì hết, cũng như cố gắng để không có nghe thấy gì hết, là điều không thể được. Khi có những ý nghĩ tự chúng nổi, chỉ coi đó là những hoạt động của bộ óc, không có nghĩa gì hết, mặc kệ chúng.”
Sư cho rằng ý của bài tụng Sandōkai là để giảng về thực tại từ hai bên.

“Như trên đã nói: “san” có nghĩa là nhiều, “dō” có nghĩa là một. Thế nào là nhiều? Thế nào là một. Nhiều là một, một là nhiều, nhiều sự vật không tự có biệt lập, chúng đều liên hệ với nhau, nên là một. Dù chúng là một, nhưng một đó lại hiện ra nhiều. Cho nên “nhiều” là đúng, mà “một” cũng đúng.” “Đó là sự đồng nhất giữa một và tất cả.”

Sư giải thích thêm về tánh đồng nhất giữa “một” và “tất cả”. Người ta thường giải thích là “thực tại” (reality) chỉ là một.

“Có một cách khác để giải thích thực tại là dùng sự “khác biệt”. Khác biệt là bình đẳng, mỗi sự vật đều có giá trị như nhau, vì chúng khác nhau. Người nam khác người nữ, người nam có giá trị của người nam, người nữ có giá trị của người nữ. Như vậy mỗi vật đều có giá trị bình đẳng và tuyệt đối. Vì mỗi vật khác nhau nên mỗi vật có giá trị cá biệt. Cái giá trị đó là tuyệt đối. Không thể nói là “núi” cao nên có giá trị hơn “sông”, “sông” tuy thấp nhưng không phải kém giá trị. Núi cao nên nó là núi, nó có giá trị tuyệt đối; nước thấp chảy ở thung lũng nên nước là nước, nó cũng có giá trị tuyệt đối.”

“Theo đạo Phật, bình đẳng tức là khác biệt, và khác biệt tức là bình đẳng. Thế thường cho rằng “khác biệt” là trái ngược với “bình đẳng”, “một” là trái ngược với “tất cả”. Nếu chỉ thấy như vậy là quá thiên về vật chất và phiếm diện.”

“Nguồn” (source) là cái gì huyền diệu ngoài sự diễn tả, ngoài văn tự. “Nguồn” đó ngoài sự phân biệt hai bên, như đúng hay sai. Những điều mà ta suy nghĩ, quan niệm thì không phải cái Nguồn đó. Chỉ có đức Phật mới thấy được. Chỉ khi nào chúng ta tọa thiền mới thấy được. Tuy vậy dù chúng ta có hành trì hay không, dù có giác ngộ hay không, thì ngay cả trước khi giác ngộ chúng ta vẫn sẵn có cái Nguồn đó.” Sư dùng danh từ “nguồn” là dịch từ câu: “linh nguyên minh kiểu khiết” trong bài tụng.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.