Đức Phật Thích Ca con đường từ khổ hạnh đến giác ngộ

I – NGUYÊN ỦY

Các biến cố quan trọng trong những năm tháng cho đến khi Ngài Sakya Gotama Siddhatta (Thích Ca Cồ Đàm Sĩ đạt đa) thành đạo tựu viên mãn Phật quả để được gọi là Sakya Buddha được ghi chép đa dạng bỡi những trường phái khác nhau và vào những thời điểm hoàn toàn khác sau khi đức Phật nhập diệt nhiều trăm năm. Bỏ qua tất cả các yếu tố thiếu đồng bộ, đi tìm mẫu số chung trong những sự kiện ngỗn ngang của dữ liệu để rút ra bài học bổ ích, có tính phổ quát và khách qua, không chấp trước vào từng tình tiết, câu cú nhỏ nhặt, đó là chính là phong cách nghiên cứu. Ngay cả kinh điển Catholic, mặc dù đức Jesus ra đời sau đức Phật đến 600 năm, nhưng những kinh điển được các Thánh rao truyền không phải được ghi lại ngay từ thế kỷ thứ nhất, thế kỷ Chúa Jesus ra đời và bị khổ hình trên thánh giá. Phải đến trăm năm sau các Thánh mới ghi chép lại thành văn bản và lưu truyền hậu thế. Điểm trớ trêu là, nội dung ghi chép của các Thánh kinh ấy cũng có nhiều điểm dị biệt đến độ mâu thuẫn, đó chính là một trong những nguyên nhân khiến người ta diễn giải kinh Thánh theo những cách riêng, dẫn đến việc chia xẻ giáo hội thành những chi phái như Công giáo La mã (Roman Catholic), Tin lành, Chính thống giáo,… Cũng như Phật tử chúng ta, những người Công giáo, từ gọi chung tín đồ tôn thờ Chúa Jesus và đức Mẹ Maria, bằng cặp mắt nhìn xa hiểu rộng và cởi mở cũng đã tháo gỡ những dị biệt nhỏ nhoi, không chấp trước vào từng câu cú, từng ý, từng từ để đi tìm mẫu số chung, ý nghĩa chung và phổ quát để lấy làm bài học chung. Khi đức Phật phân chia thời gian tồn tại của giáo pháp thành thời kỳ chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp, một trong những điều Ngài nhìn thấy có lẽ ở chỗ càng ngày chúng ta càng thủ đắc nhiều phương tiện, càng thủ đắc nhiều chúng ta càng vướng mắc nhiều, càng vướng mắc chúng ta càng không thể xả ly để cuối cùng tự chúng ta ngày càng xa rời chánh pháp và chôn vùi đời kiếp mình trong hố sâu luân hồi sinh tử.

Hai mươi sáu thế kỷ về trước, tại một vương quốc của dòng họ Thích (Sakyas), một vương quốc nhỏ nhưng thịnh vượng, rải rác các ngọn đồi ở khu vực sông Rapti tây bắc tỉnh Oudh nam Nepal ngày nay. Vị vua trị vì vương quốc là Tịnh Phạn (Suddhodana), hoàng hậu là Ma-da (Maya Gotami). Ngày trăng tròn năm 623 trước Công nguyên, hoàng hậu Ma-da hạ sanh thái tử tại vườn Lâm tỳ ni (Lumbini) thành Ca tỳ la vệ, đặt tên là Siddhatta, gọi đầy đủ là Sarvarthasiddha, nguyên chữ là Sakya Gotama Siddhatta. Bảy ngày sau khi hạ sanh, hoàng hậu qua đời, Gotama được nhũ mẫu là Ma ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajapati) nuôi dưỡng đến khôn lớn.

Sinh sống trong hoàng cung, Thái tử được học tập văn võ song toàn, tinh thông kinh điển Bà la môn. Năm 16 tuổi, theo phong tục của cha sai người lo hôn sự cho Thái tử. Cuộc tuyển lựa cuối cùng đã chọn được Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara, còn được gọi là Bhaddakaccana Bimba Rahulamata), người bà con cô cậu, con của Thiện Giác Vương (Suprabuddha) thành Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu). Tục lệ gia đình Thiện Giác Vương chỉ gả con cho những ai văn võ song toàn và phải qua kỳ tranh tài cao hạ. Cuộc so tài được tổ chức trong hàng hoàng thân quốc thích gồm tổng cộng 64 bộ môn, từ thi ca đến hội họa, đô vật,… Gotama là người cuối cùng toàn thắng và được thành hôn với Công chúa. Một trong những hoàng thân thua cuộc trong đó là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta).

Vào năm Thái tử 29 tuổi, Da Du Đà Đà La hạ sanh một hoàng nam, Vua Tịnh Phạn đặt tên là Rahula (nghĩa là trói buộc) nhân vì khi hay tin Công chúa hạ sanh, Thái tử đã buộc buộc miệng than “Lại thêm một trở ngại. Lại thêm một dây trói buộc nữa.” Dù sống trong nhung lụa, Thái tử vẫn luôn cảm thấy bất an trước những cảnh sinh lão bệnh tử, mạng người bấp bênh, phiền não khổ đau và cảnh ung dung tự tại của những đạo sư. Rồi một đêm, sau khi đi qua nhìn vợ con lần cuối, Thái tử ra lệnh mã phu Xa nặc (Channa) thắng ngựa tên Kiền trắc (Kanthaka) để Ngài vượt hoàng cung, xuất gia cầu đạo. Sau khi qua sông Anoma, Thái tử cắt tóc, gữi cả áo mão, vàng vòng châu báu để Xa nặc mang về. Từ đó Ngài bước hẳn vào con đường xuất gia cầu đạo.

Sau khi rời nhà Gotama đi thẳng về hướng đông, qua khỏi các xứ Sakyas, Koliyas và Mallas hay ít nhất cũng bằng những khoảng cách địa lý tương đương. Không có tài liệu nào đề cập đến khu vực nơi Ngài đặt chân đến trước nhất. Văn bản Pali gọi khu vực đó là sông Anoma, cách thành Kapilavatthu (Ca tỳ la vệ) ba mươi dặm, và nói rằng Ngài đi đến rừng xoài Anupiya, một địa danh mà trong kinh điển có đề cập đến như là một thị trấn nhỏ. Đại sử (Mahavastu) có nói đến một dòng sông, nhưng lại thuộc thị trấn Animiya, cách Mallas mười hai dặm. Theo Phương đẳng bản khởi kinh (Lalita-vistara sutta), đó là một địa danh có tên Anuvaineya hay Anumaineya thuộc miền Maineyas, khỏi xứ Mallas, địa danh này lại cách Mallas sáu dặm đường. Những dữ kiện này đều nhằm chỉ đến một địa điểm có thực tại một chỗ nào đó ở miền đông Kapilavatthu mà theo truyền thống sử liệu, đó chính là nơi Gotama đã đến. Anupiya là một địa danh có thực được đề cập đến trong kinh điển. Địa danh này được công nhận là nơi đức Phật dừng chân đầu tiên, những tên gọi còn lại chỉ là những cách gọi khác nhau của Anupiya mà thôi. Anupiya cũng như những địa danh cùng những biến cố nổi bật khác không phải được đề cập chỉ một lần trong bốn tạng kinh A hàm mà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong những văn bản khác với những chi tiết khác nhau, bằng nhiều hình thức khác nhau, hay được thêm vào kinh tạng theo trình tự và thứ lớp khác nhau, nhất là trong các văn bản Sanskrit, văn bản ra đời rất lâu sau những văn bản Pali. Người ta không thể không đặt ra vấn đề những điểm dị biệt và thêm thắc này trong văn bản bằng tiếng Sanskrit phải chăng chỉ là những điểm phụ họa, hoặc vã kinh điển chỉ nêu lên một số tình tiết chọn lọc trong số hàng loạt những chi tiết có thực vào thời điểm đó, để rồi những chi tiết này sẽ được nói đến đầy đủ hơn trong các luận văn ở đời sau?

Kinh điển kễ lại rằng trước nhất Gotama tìm đến thụ học với hai đạo sư, nhưng vì thấy họ không thể thỏa mãn được những điều mong mnuốn nên Ngài bỏ đi thực hành khổ hạnh trong sáu năm trường cùng với năm đệ tử. Sau đó Ngài nghĩ ra phương pháp tu tập mới nên không theo lối khổ hạnh tự đày đọa bản thân, quả nhiên sau đó Ngài đạt đến giác ngộ và giải thoát. Trong những ngày đầu sau khi thành đạo Ngài có lưỡng lự không muốn hoằ讧 pháp độ chúng, nhưng rồi Ngài quyết định chuyển pháp luân và lên đường đến Benares. Tại đây Ngài gặp lại năm đệ tử ấy, những người này trước đó đã bỏ rơi Ngài khi thấy Ngài không tu theo lối khổ hạnh, Ngài thuyết pháp và quy y cho họ. Ngoài những điểm này, người ta còn tìm thấy những chi tiết khác có ghi trong các trường ca và được xem như là những ‘huyền thoại cổ’, có lẽ những chi tiết này sau đó được các luận văn nhắc đến.

Ở giai đoạn này trước nhất chúng ta cần soi sáng những dữ kiện về nhân vật và địa danh có tư liệu ngoài phạm vi tư liệu của Phật giáo. Có nhiều tư liệu liên quan đến Đức Phật nhưng những nhà viết sử có thiên kiến cũng đã thêm bớt rất nhiều vào các truyền thuyết xưa cũ. Tuy nhiên chúng ta cũng đều thấy được rõ ràng phương diện nổi bật của sáu năm nỗ lực là việc khám phá đạo lộ đúng đắn để dẫn đến giác ngộ. Việc học tập với hai đạo sư không phải là thời gian ngấu nghiến mớ triết lý suông mà chính là việc rèn tập một phương pháp thiền định cần thiết phải có.

Đại kinh Saccaka (Mahasaccaka sutta) (Trung A hàm, i 240) viết:

“Như vậy Như lai nỗ lực tìm kiếm điều tốt đẹp, tìm kiếm niềm phúc lạc tối thượng, và Như lai đã đến với Alara Kalama rồi nói:

– ‘Thưa đạo hữu Kalama, tôi muốn sống đời phạm hạnh bằng giáo lý và giới luật này.’ Ngài Alara Kalama nói với Như lai:

– ‘Đạo hữu hãy ở lại đây, còn đấy là giáo lý mà mà một người thông tuệ chẳng mấy chốc tự mình có thể quán triệt được, lĩnh hội được và sở đắc được và an trú trong giáo lý ấy.’

Chẳng bao lâu sau Như lai nhanh chóng quán triệt được giáo lý ấy. Như vậy đến mức này chỉ việc mở môi là lặp lại được những điều đã thuộc lòng, Như lai và những đạo hữu khác đã trở thành chuyên nghiệp. Như lai nghĩ ‘Ta tuyên bố một giáo lý của trí huệ, một giáo lý dành cho bậc tôn trưởng ta hiểu và biết. Chẳng phải do lòng tín thành mà Alara đã tuyên dạy giáo lý của ông, mà tự chính bản thân ông đã hiểu được, ngộ được, sở đắc được và an trú trong đó. Rất là như vậy lắm, Alara đã biết và hiểu được giáo lý này.’ Do vậy Như lai tìm đến Alara và nói với ông:

– ‘Thưa đạo hữu Alara, Ngài đã quán triệt được, lĩnh hội được và sở đắc được giáo lý này đến mức nào và Ngài có thể tuyên bố được như thế nào?’

Do nhân duyên như vậy Alara tuyên bố sở đắc tánh không. Rồi Như lai tự nghĩ, ‘Alara không có lòng tín nhưng ta có. Alara không có lòng dũng, nhưng ta có. Alara không có sự tỉnh thức nhưng ta có. Alara không có định, nhưng ta có. Alara không có huệ nhưng ta có. Sẽ như thế nào nếu ta nỗ lực quán triệt giáo lý mà Alara đã tuyên bố là chính ông đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và an trú được ở đấy.’ Chẳng bao lâu sau ta nhanh chóng quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và an trú ở đấy.

Rồi Như lai tìm đến Alara và bạch với Ngài:

– ‘Phải chăng đó là giới hạn của giáo lý mà chính bản thân Ngài đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và chính Ngài đã tuyên bố như vậy?’

– ‘Thưa đạo hữu, đó là giới giới hạn của nó’.

– ‘Thưa đạo hữu, bản thân tôi, tôi cũng đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và an trú được ở đấy’.

– ‘Thưa đạo hữu, thật là thắng lợi cho chúng ta, quả là thắng lợi vĩ đại cho chúng ta để có được một môn sinh giờ thành bạn hữu. Chính là như thế đó, giáo lý mà chính bản thân tôi đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và tuyên bố, chính giáo lý ấy đạo hữu cũng đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và an trú được ở đấy… chính là như thế đó, tôi như thế nào thì đạo hữu cũng như thế ấy, đạo hữu như thế nào thì tôi cũng như thế ấy. Này đạo hữu, giờ đây cả hai chúng ta nên cùng nhau hiến dâng cho cộng đồng này.’

Chuyện là như vậy, Alara người thầy dạy của Như lai đã xem đồ đệ của mình ngang hàng với ông ta và đã tôn vinh ta bằng sự tôn vinh nổi bật nhất. Nhưng ta lại nghĩ, ‘giáo lý này chỉ đạt đến sự lãnh ngộ tánh không chứ không dẫn đến sự nhàm chán, sự dứt bỏ luyến ái, sự chấm dứt khổ đau, sự tịch tĩnh, trí huệ siêu việt và Niết bàn.’ Do không ham mê lý thuyết này nên ta bỏ đi lòng không hối tiếc.”

Rồi Ngài đến Uddaka Ramaputta và nội dung cũng được diễn tả bằng những lời tương tự, nhưng ở đây giáo lý được thực hiện và do Rama, cha của Uddaka, tuyên bố sở đắc. Đấy là cảnh giới Phi tưởng Phi phi tưởng. Về phần Uddaka, ông ta không muốn đặt Gotama ngang hàng với mình mà chỉ công nhận Ngài làm thầy của các môn đệ của ông ta mà thôi. Ngài nhận thấy lý thuyết này cũng không thỏa mãn được Ngài nên lại lần nữa bỏ đi.

‘Ngài đến thọ giáo với một giáo sĩ danh tiếng khác là Uddala Ramaputta. Không bao lâu sau, vị đệ tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và đắc đệ bát thiền vô sắc tức tầng cao nhất của thiền vô sắc, cảnh giới Phi tưởng, Phi phi tưởng, không còn tri giác nữa, ấy là bậc thiền cao nhất trong tam giới. Khi đắc được thiền này, tâm trở nên vô cùng tinh vi, tế nhị đền nỗi không thể nói là có tâm hây không. Vào thời bấy giờ không ai đắc được thiền nào cao hơn nữa.

Vị đạo sư cao thượng ấy lấy làm hoan hỉ được biết sự thành công rực rỡ của người đệ tử đặc sắc của mình. Nhưng không như đạo su trước, đạo sĩ Uddaka Ramaputta mời Ngài nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm dạy dỗ hàng môn đệ:

“Hỡi này đạo hữu, tôi lấy làm hoan hỉ. Thật vậy, tôi vô cùng hoan hỉ được gặp một người đồng tu tài đức đáng tôn kính như đạo hữu. Giáo lý mà Rama đã hiểu biết đạo hữu cũng hiểu. Giáo lý mà đạo hữu hiểu tôi cũng đã hiểu biết. Rama đã như thế nào thì hôm nay đạo hữu cũng nhu thế ấy. Ngày nay đạo hũu như thế nào thì Rama đã như thế ấy. Vậy, hỡi này đạo hữu, hãy lại đây, đạo hũu sẽ dẫn dắt nhóm đạo sĩ ở đây.”

Tuy nhiên Gotama cảm thấy đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Ngài đã hoàn toàn chế ngự tâm, mình, hoàn toàn làm chủ cái tâm, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn còn mãi ở xa. Ngài đang tìm con dường Niết bàn, tức là con đường hoàn toàn siêu thoát ra jkhỏi vòng phiền não trầm luân và tận diệt mọi hình thức ái dục.

Không thỏa mãn với phương pháp tu tập của Ramaputta, một lần nữa Gotama lại ra đi.

Sau khi học tập với hai đạo sư nổi tiếng nhất thời ấy, Gotama nhận thấy rằng không còn ai có đủ khả năng để dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu vì tất cả đều chưa thoát khỏi vòng vô minh. Từ đò Ngài không đi tìm sự giúp đỡ bên ngoài nữa.

“Như vậy Như lai nỗ lực tìm kiếm điều tốt đẹp, tìm kiếm niềm phúc lạc tối thượng, Như lai dò dẫm đến Magadhas, rồi đi đến Uruvela, một thị trấn nhỏ bé. Ở đó Như lai thấy một địa điểm xinh xắn có một khu rừng con, một dòng sông trôi chảy thơ mộng có nước trong vắt và những cây cầu đẹp, chung quanh là làng mạc có thể trì bình khất thực. Nơi này chắc chắn là một chỗ rất thích hợp để người ta nỗ lực đạt đến những điều mong muốn. Rồi Như lai ngồi xuống đó : nơi chốn thích hợp là đây để nỗ lực phấn đấu.”

Còn có ba truyện kễ khác liên quan đến giai đoạn nỗ lực phấn đấu của Gotama. Một mẫu truyện nói về một người cố nhóm lửa bằng chà que củi nhóm lủa vào một mảnh gỗ tươi xanh ướt sủng bị ngâm trong nước. Anh chàng ấy không sao có thể nhóm lửa lên được, đó là hình ảnh của những tu sĩ khổ hạnh nhưng lòng còn đầy tham-ái. Trường hợp ấy cho dù họ có hành trì lâu mau, nghiêm mật, khôn khéo, khổ hạnh đắng cay hay không, họ đều chẳng thể nào đạt được trí huệ và giác ngộ. Đó chính là trường hợp thứ nhì, trường hợp một anh chàng dùng que củi chà vào mảnh gỗ tươi xanh ướt sủng, cho dù có vớt mảnh gỗ ấy ra khỏi nước cũng không có gì thay đổi. Trong trường hợp thứ頢a, anh chàng ấy dùng mảnh gỗ khô, thế là anh ta có thể nhóm được lửa. Như thế là ngươi tu khổ hạnh nếu biết gạt bỏ và làm lắng dịu tham-dục, anh ta có thể đạt được trí huệ và giác ngộ. Điểm quan trọng của đoạn trích dẫn dưới đây ở chỗ một phần đoạn văn này có nguồn gốc rất xa xưa nhờ tìm được trong các nguồn kinh điển Sanskrit, phần khác ở chỗ đoạn văn này cho thấy phương pháp thiền định của Phật giáo là độc nhất hay có vay mượn ở những nguồn tôn giáo khác. Người ta dễ dàng nhận thấy Gotama là người đầu tiên thực hành những phương pháp nổi tiếng này trong đoạn văn dưới đây:

Đại kinh Saccaka mô tả hạnh tinh tấn của Bồ Tát như sau:

Lúc ấy tư tưởng sau đây đến với ta:

Hay là ta cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi dùng tâm (thiện) đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện)!

Rồi Như lai cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, và nỗ lực đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện) bằng tâm (thiện). Lúc ta chiến đấu như vậy thì mồ hôi từ trong nách chảy tuôn ra.

Như người mạnh nắm lấy đầu hay hai vai một người yếu rồi đè xuống, dùng sức cưỡng bách và khắc phục, không cho ngóc lên, cũng dường thế ấy, ta chiến đấu và khắc phục (những tư tưởng bất thiện).

Sự tinh tấn của ta quả thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của ta thật là vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân ta mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ – thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân ta , nó không chế ngự được tâm ta.

Lúc ấy Như lai nghĩ như sau: hay ta thử trau giồi pháp hành thiền nín thở!

Rồi ta kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi ta kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc ta ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh cũng to như thế ấy… Rồi Như lai nghĩ: hay ta thử trau giồi pháp hành thiền nín thở! Thế là ta kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi ta kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc ta ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh cũng to như thế ấy…

Dẫu sao, hạnh tinh tấn của ta vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của ta vẫn vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân ta mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ – thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân ta , nó không chế ngự được tâm ta.

Rồi tư tưởng sau đây đến với ta: Hay là ta thử trau giồi pháp nín thở!

Rồi Như lai kiểm soát hơi-thở-vô, thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng thở bằng miệng, mũi và tai thì hơi (bị dồn ép) đập mạnh trong đầu ta . Như có người thật mạnh khoan vào sọ ta một lưỡi khoan thật bén, khi tôi ngừng thở, hơi đập vào đầu ta cũng làm đau đớn như vậy. Mặc dầu những cảm giác đau đớn như vậy phát sanh ở thân ta, nó không ảnh hưởng đến tâm ta chút nào.

Lúc ấy Như lai tự nghĩ: Hay ta thử hành pháp thiền nín thở ấy một lần nữa!

Rồi Như lai kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra từ miệng, mũi và tai. Và lúc ta ngừng thở, đầu ta nghe đau bưng lên. Trạng thái đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ giống như có một lực sĩ dùng dây thừng siết chặt đầu ta lại. Tuy nhiên, hạnh tinh tấn của ta vẫn một mực kiên trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hởng đến tâm ta.

Lúc ấy Như lai tự nghĩ: Hay ta thử hành thiền về pháp nín thở một lần nữa!

Rồi Như lai ngưng thở bằng miệng, mũi và tai. Khi ta kiểm soát hơi thở như thế ấy thì một luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng ta. Tên đồ tể, thiện nghệ hay mới tập sự, dùng dao bén rạch một đường trên bụng, làm đau đớn thế nào thì luồng gió mạnh thọc xuyên qua bụng làm ta đau đớn dường ấy. Tuy nhiên ta vẫn một mực kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn ấy không ảnh hưởng đến tâm ta.

Lần nữa Như lai tự nghĩ: hay ta thử hành thiền thêm về pháp nín thở!

Rồi Như lai kiểm soát hơi-thở-ra, thở-vào từ miệng, mũi và tai. Và khi nín thở như vậy ta cảm giác như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và bao trùm lấy ta. Như có hai tay lực sĩ nắm chặt một tên yếu ớt nướng y trên đống lửa than đang cháy đỏ cho đến lúc hoàn toàn thiêu rụi, lửa thiêu đốt thân tôi lúc ngừng thở cũng nóng dường thế ấy. Tuy nhiên, ta vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn ấy không chế ngự được tâm ta.

Lúc ấy có những vị Trời thấy Như lai vậy thì nói với nhau: Đạo Sĩ Gotama đã chết! Vài vị khác ghi nhận: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn, nhưng đang chết dần! Trong lúc ấy cũng có vị nói: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn cũng không phải đang chết dần. Ngài là một vị A La Hán. Đây là lối sống của một vị A La Hán.”

Rồi Như lai nghĩ: hay ta thử hành pháp tuyệt thực!

Lúc ấy có những vị Trời đến gần Như lai và nói: “Bạch Ngài, xin Ngài chớ nên hành pháp tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa thì chúng tôi sẽ rót trên thân Ngài những chất bổ của cảnh Trời để cho nó thấm vào lỗ chân lông và nuôi sống Ngài.

Và Như lai nghĩ: nếu ta hành pháp tuyệt thực mà các vị Trời lại rót chất bổ của cảnh Trời để nuôi sống thân này thì quả là một điều gian dối, nên tôi từ chối rằng: “Điều ấy không cần thiết.”

Lúc ấy Như lai suy nghĩ như sau: hay ta thử dùng chút ít vật thực, mỗi lần chỉ một chút thôi, một ít nước đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu trắng.

Khi mà Như lai chỉ dùng thật ít vật thực như thế, ở thể đặc hay thể lỏng, thì thân ta trở nên cực kỳ gầy yếu. Vì thiếu vật thực, những bộ phận lớn và nhỏ trong thân ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống hay những cây đăng tam thảo. Vì thiếu vật thực, bàn tọa của ta chỉ còn bằng cái móng của con lạc đà. Vì thiếu vật thực, xương sống ta cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và cong vào. Vì thiếu vật thực, xương sườn ta tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Vì thiếu vật thực, mắt ta không khác nào hình ảnh của những ngôi sao mà ta có thể thấy dưới một cái giếng sâu. Vì thiếu vật thực, trái mướp đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng làm da mướp teo lại, nhăn nhó và héo tàn thế nào thì da đầu ta lúc ấy cũng nhăn nhó và héo tàn như thế ấy. Khi muốn rờ da bụng thì ta đụng nhằm xương sống, còn khi muốn rờ xương sống thì ta lại đụng nhằm da bụng, vì thiếu vật thực da bụng tôi ép sát vào xương sống. Lúc muốn đứng dậy cho thoải mái, thì ta luống cuống té ngã xuống vì thiếu vật thực. Ta đập nhẹ trên chân, tay để làm cho thân mình sống lại, lúc đập như thế, lông trên mình ta lả tả rơi xuống đất do đã chết gốc vì thiếu vật thực.

Thấy Như lai như vậy, có người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama đen’. Vài người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama không đen mà là nâu’. Cũng có người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không nâu, màu da của ông ta là màu da ca,駠màu da sáng sủa và trong trẻo của ta tàn tệ đến như thế ấy vì thiếu vật thực.

Rồi tư tưởng sau đây phát sinh đến với Như lai : dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong quá khứ đã chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa như thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn nữa. Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong tương lai sẽ chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu khắc khổ, khó khăn và đau đớn mà ta không đạt được điều chi tốt đẹp, xứng đáng với sự giác ngộ cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những trạng thái cao thượng của loài người. Hay là còn con đường nào khác dẫn đến giác ngộ chăng?”

(Đoạn trích dẫn của HT Narada trong quyển The Buddha and His teaching, trích lược từ bản tiếng Việt của Phạm Kim Khánh được sửa chữa đôi chỗ)

Rồi Như lai nghĩ, bây giờ Như lai nhớ lại hồi Như lai còn ở với phụ vương, lúc ra ngoại thành có lần Như lai đã ngồi tọa thiền dưới bóng cây trong tâm không còn có tư tưởng tham dục, không còn có tư tưởng tà vạy, ta đã đạt đến cảnh thiền thứ nhất đầy hỷ lạc từ trong sự tịch tĩnh kết hợp với lý luận và suy nghiệm. Có lẽ đây là con đường dẫn đến giác ngộ. Rồi dùng sự kết hợp tỉnh thức với ý thức làm con đường đi đến giác ngộ. Như lai lại nghĩ, tại sao ta lại sợ hãi trạng thái hỷ lạc không vướng bận tham dục và tư tưởng tà vạy? Và ta lại nghĩ, ta không nên sợ hãi trạng thái hỷ lạc không vướng bận tham dục và tư tuởng tà vạy ấy.

Rồi ta lại nghĩ, bằng với cơ thể suy yếu như thế này ta thật khó mà có thể đạt trạng thái hỷ lạc ấy được. Nếu bây giờ ta thử dùng thực phẩm thô, cơm, sữa chua,… thì sự thể sẽ ra thể nào? Khi ấy năm vị sư theo hầu ta có ý nghĩ là “khi đạo sĩ Gotama đắc đạo Ngài sẽ nói đạo ấy cho mình.” Nhưng khi ta dùng thực phẩm thô, gạo và sữa chua, năm vị sư ấy nhàm chán, nói rằng “đạo sĩ Gotama sống đời lợi dưỡng, ông ta đã bỏ tu trì, ông ta sẽ quay theo đời sống lợi dưỡng.”

Bấy giờ sau khi ăn uống và phục hồi sức khoẻ trở lại, tuyệt không vướng bận tham dục và tư tưởng tà vạy Như lai đạt đến và an trú trong cảnh thiền thứ nhất đầy hỷ lạc từ trong sự tịch tĩnh kết hợp với lý luận và suy nghiệm. Dù cảm giác hỷ lạc phát sinh nó vẫn không chế ngự được tâm ta. Rồi ngưng lý luận và suy nghiệm, Như lai đạt được và an trú trong cảnh thiền thứ nhì đầy hỷ lạc do tâm định, nội tại tịch tĩnh, trụ tâm vào một chỗ không còn lý luận và suy nghiệm. Hướng sự xả ly vào hỷ và sân Như lai an trú bằng tỉnh thức và ý thức rồi kinh nghiệm được diệu lạc bản thân, đó là điều mà những bậc tôn túc gọi là “an trú bằng xả ly, tỉnh thức và phúc lạc”, và Như lai đạt được cũng như an trú được trong thiền cảnh thứ ba. Xả ly hỷ lạc, xả ly đau khổ, trước khi tư tưởng buồn vui biến mất, Như lai đạt được và an trú trong cảnh thiền thứ tư, cảnh thiền không còn đau khổ, không còn hỷ lạc mà chỉ còn đầy sự thanh tịnh của tâm tỉnh thức và tịch tĩnh.

Bằng với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết (vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn, kiên định Như lai hướng tâm về sự nhớ lại những kiếp quá khứ (Túc mạng minh). Như lai nhớ lại nhiều kiếp như thế này: đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, rồi năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều châu kỷ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều châu kỷ thế gian rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều châu kỷ thế gian. Ở đây Như lai tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cử điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết chóc cách nào. Từ cảnh ấy ra đi Ngài tái sanh vào cảnh nào. Rồi tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cử điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sanh vào cảnh nầy.

Như thế Như lai hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ.

Đây, hẳn vậy, là Tuệ giác đầu tiên mà Như lai chứng ngộ lúc quán chiếu lần thứ nhất, đêm thành đạo.

(Đoạn trích dẫn của HT Narada trong quyển The Buddha and His teaching trích lược từ bản tiếng Việt của Phạm Kim Khánh được sửa chữa đôi chỗ)

Bằng với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết (vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn, kiên định Như lai hướng tâm về sự tri giác hiện tượng chết và tái sinh của chúng sanh (Thiên nhãn minh). Bằng với nhãn quan phạm thiên, thanh tịnh và siêu phàm ta nhìn thấy chúng sanh chết đi rồi tái sanh trở lại, dưới cõi thấp cũng như trên cõi cao, bằng màu da tốt cũng như màu da xấu, trong cảnh đời hạnh phúc hay khổ đau tuỳ nghiệp căn của họ. Những chúng sanh sống đời tà mỵ bằng hành, ngữ và ý, nói điều tà mỵ với những bậc tôn túc, những chúng sanh với tà kiến, hành nghiệp do tà kiến, sau khi thân xác tan rã sẽ sanh vào cảnh khổ sở đớn đau trong địa ngục. Những chúng sanh sống đời tốt lành bằng hành, ngữ và ý, không nói điều tà vạy với những bậc tôn túc, những chúng sanh với chánh kiến, hành nghiệp do chánh kiến, sau khi thân xác tan rã sẽ sanh vào cảnh hạnh phúc trên những cõi trời…

Đây là Tuệ giác thứ nhì mà Như lai chứ鮧 ngộ khi quán chiếu lần thứ nhì đêm thành đạo.

Bằng với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết (vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn, kiên định Như lai hướng tâm tìm hiểu về sự tận diệt các pháp lậu hoặc (Lậu tận minh). Do vậy Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘đây là sự khổ,’ do vậy Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘nguyên nhân của khổ’, và do vậy Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘đây là sự diệt khổ,’ do vậy Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘đây là con đường dẫn đến sự diệt khổ.’ Do vậy Như lai lĩnh ngộ được ‘đây là những lậu hoặ#146;..’đây là nguyên nhân của lậu hoặc’…’đây là sự diệt tận lậu hoặc’… ‘đây là con đường dẫn đến sự diệt tận lậu hoặc’. Như lai hiểu và nhận thức như thế, tâm ta giải thoát các lậu tham dục, các lậu tham hữu, các lậu vô minh. Và Như lai được giải thoát, bản thân Như lai hiện rõ ý thức về sự giải thoát đó. Như lai nhận rõ sự sanh đã diệt, đời phạm hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa. Đây là Tuệ giác thứ ba mà Như lai chứ鮧 ngộ khi quán chiếu lần thứ ba vào đêm ấy. Vô minh đã tan, tuệ giác đã khai mở. Bóng tối đã cuốn đi, ánh sáng đã chan hòa. Và Như lai an trú trong tỉnh giác, dũng khí và cương quyết.”

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.