Thiền Sư Viên Chiếu

Thiền sư Viên Chiếu (909-1090) đời thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông

Ngài là một tăng sĩ uyên bác kinh điển Phật Giáo, Nho giáo, từng nghiên cứu Thiền học. Nhờ thường trì bộ kinh đốn giáo đại thừa ( kinh Viên Giác bên đã linh hội được phép Tam quán, sâu rõ ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát ).

Trong số các Thiền sư nổi tiếng của Thiền phái Vô Ngôn Thông ở Việt Nam, Thiền sư Viên Chiếu (998-1090) có thể được xem như nhân vật tài hoa bậc nhất. Tất cả những tác phẩm Sư để lại như kết tinh hết những kỳ hoa dị thảo về khoe sắc giữa vườn văn học Thiền Việt Nam.

• Văn tài kỳ vĩ, xuất khẩu thành thơ.
Bao nhiêu điển tích cổ Trung Hoa đều nằm sẵn trong lòng , vừa động đến liền xuất khẩu thành thơ văn , nhiều người thời nay khó hiểu.
Lý Thiền Tông sáng ngời như hòn Ngọc báu chôn sâu trong lùm ngôn ngữ kỳ bí , người thiết tha tu học không biết manh mối chỗ nào mà tìm.
Lời đối đáp trong tham đồ hiểu quyết rất linh động và chính xác với giáo điều cơ nguyên
( trích trong lời bình giảng về THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT – HT Thích Thanh Từ ).

• Đọc Tham Đồ Hiển Quyết của Viên Chiếu Thiền Sư, cũng như đọc những ngữ lục.
Tham đồ hiển quyết” của thiền sư Viên Chiếu là một tác phẩm văn học thiền, hàm tàng nhiều ẩn ngữ khó giải mã nhất trong số thiền ngữ, thiền thoại của nước ta.” (Minh Đức Triều Tâm Ảnh – “Đọc yếu chỉ của thiền sư Viên Chiếu”).

Tư tưởng thiền của Viên Chiếu, qua phương pháp, lập ngôn, khẩu khí… có cái gì đó rất riêng, rất sáng tạo; không hề bắt chước, lập lại, nói theo các ngữ lục của chư tổ thiền tông Trung Quốc. Ông đã sử dụng một hình thức thi ca bác học; câu cú, đối luật nghiêm túc, nghệ thuật tu từ lão luyện; và nhất là nghệ thuật hình tượng đa dạng, phong phú, tạo ấn tượng mạnh mẽ, chắt lọc cảm xúc, va động vào chiều sâu tâm linh của thiền giả” (Minh Đức Triều Tâm Ảnh – “Đọc yếu chỉ của thiền sư Viên Chiếu”).

Triều đại vua Lý Nhân Tông ….
Phật Giáo Việt Nam xuất hiện một danh tăng, văn tài kỳ vĩ!
Thiền Sư Viên Chiếu, đời 7 dòng phái Vô Ngôn Thông
Danh gia vọng tộc , nối pháp Trưởng Lão Đinh Hương(1)
Tinh hoa hội nhập Tam Quán từ kinh Viên Giác (2) -(3)

Ngôn ngữ tam muội sâu rõ, thuyết giảng lưu loát
Trong thiền định, Văn Thù mổ bụng… Dẹp sạch hết vô minh ! (4)
Vấn đáp thiền sinh chọn lọc ấn tượng thiên nhiên
Cảm hứng thi ca bày rõ bí quyết người tham vấn (5)

Mượn điển tích ẩn dụ hiển hiện siêu việt tuệ mẫn
Tham đồ hiển quyết… minh chứng hùng hồn (6)
Tác phẩm duy nhất còn sót lại …liên quan đến Thiền Tông (7)
Tiếc thay thất lạc ” Dược Sư Thập Nhị Nguyện văn “kiệt tác (8)

Bài kệ thị tịch… khuôn vàng thước ngọc tâm linh giải thoát (9) !
Nam Mô Viên Chiếu Thiền Sư tác đại chứng minh

Huệ Hương – Melbourne 3/8/2021

__________________________

(1) “Thiền Sư Viên Chiếu sinh năm 999 tịch năm 1090, đời thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông.
Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm, là con người anh bà Linh Thái hậu vợ vua Lý Thái Tông” Long Đàm là tên huyện, nay tuộc huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội. Cha Ngài là anh của bà Linh Cảm Thái hậu, tức là anh vợ vua Lý Thái Tông.
“Thuở nhỏ Sư rất thông minh và hiếu học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bổn quận có vị trưởng lão giỏi về tướng số liền đến nhờ xem. Trưởng lão xem xong, bảo :”Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ Tát, bằng không thì việc thọ yểu khó giữ”…
Viên Chiếu cảm ngộ, bèn tạ từ cha mẹ, rồi đi đến núi Ba Tiêu học đạo với thiền sư Định Hương.

(2) Ông dành nhiều năm hầu hạ thầy và nghiên cứu Thiền học.Ông thường trì kinh Viên Giác và lĩnh hội được phép Tam quán
Đây là cốt tủy của kinh Viên Giác TRI HUYỄN TỨC LY, LY HUYỄN TỨC GIÁC
Nội dung Kinh Viên Giác, theo cách chia khoa đoạn thông thường, đượ chia làm 3 đoạn” Tự phận, Chính tông và Lưu thông. Phần Chính tông chia làm 11 chương: từ chương Văn Thù đến chương Viên Giác. Sau cùng chương Hiền Thiện Thủ thuộc phần Lưu thông.
Chính Tông:
– Chương 1-Văn Thù
– Chương 2- Phổ Hiền
– Chương 3- Phổ Nhãn
– Chương 4-Kim Cương Tạng
– Chương 5-Di Lặc
– Chương 6-Thanh Tịnh Tuệ
– Chương 7-Oai Đức Tự Tại
– Chương 8- Biện Âm
– Chương 9-Tịnh Chu Nghiệp Chướng
– Chương 10-Phổ Giác
– Chương11- Viên Giác
Lưu thông:
– Chương12- Hiền Thiện Thủ
Các chương, từ chương Văn Thù trở xuống đều lấy tên của người đối cơ mà đặt tên. Chương Văn Thù thứ nất, nói về nhân hạnh căn bản quả tướng của Như Lai. Nhân hạnh, nhân của Như Lai là bản thể của Như Lai là bản thể của Viên Giác sẵn có. Quả tướng là nói về phần khai hiển của Viên Giác sẵn có đó. Phật không phải là sự việc mới thành, mà chỉ là sự hoàn nguyên ở Viên Giác sẵn có. Đó là biểu thị về lý “thủy bản bất nhị”, đó cũng là then chốt yếu ước của phẩm này.
Ở chương Phổ Hiền, từ nơi Viên Giác sẵn có, không nói sự tu hành thành Phật nhưng vì kẻ ngộ giải “bản lai Phật” lại nói Phật từ nơi tu hành mà thành tựu được Vì kẻ ngộ giải ấy mà nói nguyên lý chân tu hành mới thành tựu được Phật quả.
Chương Phổ Nhãn căn cứ ở nguyên lý chân tu hành trước mà chỉ bày về phương pháp thực tu. Pháp thực tu này nói tu từ Sa ma tha, quán về lý huyễn tướng của thân tâm, nên biết được hết thảy đều là huyễn, thì bản tính của Viên Giác xuất hiện.
Chương Kim Cương Tạng, Phật trả lời câu hỏi của Kim Cương Tạng, vô minh có tái khởi hay không? Phật trả lời, hết thảy chư pháp đều biến hóa luân hồi, đi lại không trụ, đó gọi là luân hồi. Nếu đem con mắt của luân hồi mà thấy thì Viên Giác cũng luân hồi theo, nếu chủ quan xa lìa được luân hồi thì thể của Viên Giác thường trụ bất diệt. Trong nơi bản giác của thường trụ bất biến, thì không có sự kiện vô minh tái khởi, cũng như vàng từ quặng mà nấu thành, vàng không thể trở lại thành quặng.
Chương Di Lặc nói về căn bản của luân hồi là tham ái, nên hành giả tu hành trước tiên phải đoạn trừ tham ái.
Chương Thanh Tịnh Tuệ, nếu chứng được Viên Giác thì không có mê ngộ ở tính của Bồ Đề. Vì có mê ở nơi không mê ngộ nên lập ra giai vị tu chứng, mở ra con đường tu hành, tức là tùy thuận giác tính; người đã vào ngôi địa tùy thuận giác tính, và Như Lai tùy thuận giác tính. Phàm phu là ngô tín, chưa vào ngôi địa là Địa Tiền, đã vào ngôi địa là Địa Thượng, tới ngôi cực địa sau cùng là Diệu Giác, tức là Phật.
Chương Oai Đức Tự Tại nói về căn tính của chúng sinh có 3 thứ, theo 3 thứ quán môn ở trước, lại chia nhỏ thành 25 thứ “thanh tịnh định luân” để phối hợp với 3 thứ quán môn, chỉ dẫn cho việc thích nghi tu hành.
Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng chỉ rõ căn bản phiền não, nó làm mờ lý bản lai Viên Giác. Đó là 4 thứ điên đảo: “ngã”, “nhân”, “chúng sinh”, “thọ mệnh”, vọng chấp nơi tồn tại của chúng. Do 4 thứ căn bản phiền não ấy mà mê tưởng là thực ngã.
Ở chương Phổ Giác, chỉ dẫn phải tỏ rõ về đạo, chọn thầy để tu, tìm bậc chính kiến thiện tri thức, phải dụng tâm, đừng lừa dối thân giáo. Vì tính Viên Giác không ở nơi phát minh của nhân lực mà lại nương ở thứ thứ tu hành để cần cầu Viên Giác, thì đó gọi là “tác bệnh”. Lại chân lý, gọi là không đọa sinh tử, không cầu Niết bàn, cũng không cần tu hành, tự nhiên phóng nhậm, đó gọi là “nhậm bệnh”. Hoặc lại ngăn chặn hết thẩy mối nghĩ, trở về không tịch, bảo đó là Niết bàn, gọi là “chỉ bệnh”. Nói thân tâm không tịch gọi là Viên Giác, chấp trước ở một tướng không tịch, đó gọi là “diệt bệnh”. Nếu muốn không bị giam hãm ở 4 thứ bệnh Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt này thì phải giữ luật nghi. Đó là căn yếu của chương này.
Cuối cùng, chương Viên Giác, chỉ bày phương pháp an cư của người tu hành, gồm có 3 thứ: trường kỳ, trung kỳ, đoản kỳ. Trường kỳ và đoản kỳ để lần lượt tiến tu 3 thứ quán. Môn tu trong đạo tràng an cư này, đó là Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na
Chương Hiền Thiện Thủ là chương thuộc phần lưu thông, thuyết minh về công đức phụng trì, tu tập và bảo hộ kinh này.

(3) HT Thích Thanh Từ giải thích Ngài trì pháp Tam quán cuả Kinh Viên Giác đến thông suốt.
Điều này cho chúng ta thấy Ngài vừa tu thiền vừa trì kinh, chớ không phải chỉ chuyên về thiền. Tam quán của Kinh Viên Giác : Xa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na, dịch như thế thì đơn giản và dễ hiểu.
Kinh Viên Giác giải Xa ma tha là dừng lặng, người muốn cầu tánh Viên Giác nơi mình thì dùng tâm tỉnh giác quán chiếu, lấy lặng lẽ làm hạnh, đối cảnh nhiểm tịnh tâm không duyên theo là thể chân chỉ. Nhớ là thể chân chỉ, chớ không phải là kềm chế một chổ. Thể chân chỉ là dừng ở bản thể chân tâm. Như vậy ở đây khác với chỉ thông thường, chỉ thông thường là chú tâm vào một cảnh cho tâm an định. Còn chỉ ở đây là đối cảnh nhiểm tịnh không theo, tức là dừng ngay bản thể chơn tâm nơi mình, không phải dừng ở cảnh bên ngoài. Quý vị phải hiểu chổ này cho rõ, kẻo lầm với pháp tu chỉ khác. Pháp tu chí này tương đương với Không quán cuả tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai cũng chia Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán.
Tam ma bát đề ở đây dịch là đẳng chí, nghĩa là đến một cách bình đẳng, xa lià hôn trầm trạo cử gọi là đẳng. Người tu thiền đa số đều mắc bệnh hôn trầm và trạo cử, lià được hai bệnh này thì tâm bình đẳng an hòa, không còn bị trạo cử làm rối, không bị hôn trầm làm mê, bình đẳng ở chổ đó. Nói cách khác là trung hòa giữa trạo cử và hôn trầm, đến chổ an hòa gọi là đẳng gọi là chí. Người muốn cầu Viên Giác nơi mình, dùng tâm tỉnh giác biết rõ tâm thức và căn trần đều do nhân huyễn hóa mà có, liền khởi quán huyễn để trừ các huyễn. Nghĩa là thấy các pháp đều là huyễn hóa, do mê lầm nên chấp nó là thật. Bây giờ phải quán huyễn để trừ mê lầm, dứt cái chấp huyễ là thật, gọi là trừ huyễn. Đây là phương tiện tùy duyên quán, tức là tùy duyên trải qua các cảnh mà tâm an không động. Nói cách khác là thấy tất cả pháp như huyễn, hay thấy căn, trần và tâm thức đều là tướng huyễn hóa, nên tâm an không động. Tâm thức thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hay thuộc về ý, do các duyên sanh ra, không phải là thể tánh của tâm. Chổ này tôi thường nhắc tăng ni ‘tu biết vọng ‘ xả bỏ vọng niệm, lâu ngày thấy hơi đau đầu thì nên khởi quán thân này và ngoại cảnh đều là tướng huyễn hóa, để khỏi quay lại quán nội tâm. Nhờ thấy thân tứ đại và ngoại cảnh bên ngoài, do duyên hợp huyễn hóa không thật nên mắt thấy cảnh tâm không xao động không dính mắc. Quán bên ngoài thì không kềm chế bên trong do đó không bị đau đầu. Tu như thế gọi là ‘hay tùy duyên trải qua các cảnh mà tâm an không động ‘. Tuy vẫn thấy cảnh này cảnh nọ khác nhau, song tất cả tướng khác ấy đều là huyễn hóa không thật nên tâm không dính mắc không động. Đó cũng là một phương tiện an tâm. Thế nên nói pháp quán này tương đương với Giả quán của tông Thiên Thai. Về sau Ngài dịch qúa đơn giản, Tam ma bát đề dịch là quán, không dịch là đẳng chí.
Thiền na dịch là tịnh lự, tịnh là định, là tâm không dấy niệm xao động, lự là tuệ, là quán chiếu soi sét các pháp thấy đúng như thật. Người muốn cầu Viên Giác dùng tâm tịnh giác thấy các pháp thường yên lặng, không khởi quán càc pháp huyễn hóa. Khéo tùy thuận cảnh giới lặng lẽ, tức là đối cảnh mà tâm vẫn lặng lẽ. Thay vì đối cảnh phải quán huyễn hóa, nhưng không quán mà tùy thuận các cảnh tâm vẫn lặng lẽ, gọi là nhị biên chỉ. Nhị biên là hai bên, bên chỉ và bên quán đều lặng lẽ, tức là không phân biệt sanh tử và Niết bàn. Thường thì chúng ta hoặc đắm mê sanh tử hoặc ưa thích Niết bàn, nhưng tu tới đây thì không còn thấy sanh tử và Niết bàn là hai tướng đối đãi nữa. Tất cả tướng đối đãi : có không, phải quấy, tốt xấu… là kiến chấp hai bên đều hết sạch, Chỉ và Quán ở trước không còn. Đó là Thiền na, tương đương với Trung quán của tông Thiên Thai.
Ba pháp Chỉ, Quán và Thiền na là ba pháp tu cương yếu của kinh Viên Giác, thiền sư Viên Chiếu nghiên cứu lâu ngày được thâm nhập. Ngài tu thiền mà thâm nhập ba pháp quán của kinh Viên Giác, như vậy là Ngài vừa thông giáo vừa đạt lý thiền.

(4) ‘ Một đêm trong thiền định, Sư thấy Bồ Tát Văn Thù cầm dao mổ bụng Sư, rửa ruột cho và trao diệu dược. Từ đây những sở tập trong tâm rõ ràng khế hợp, sâu được ngôn ngữ tam muội, giảng kinh thuyết pháp thao thao ‘.
Và HT cũng giải thích rằng : Chổ này hơi khó hiểu nhưng có thật. Tại sao khó hiểu ? Trong thiền định lẽ ra không được mê, mà Ngài thấy Bồ tát Văn Thừ cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi cho thuốc hay. Vậy lúc đó Ngài tỉnh hay mê? Nếu tỉnh thì không có mộng, mà mộng thì không tỉnh.
Thật ra việc này hơi huyền bí, nhưng thường xảy ra ở các thiền sư. Tức là trong khi định dường như mê, song đây là việc mầu nhiệm trong đạo, khó mà giải thích.
Bồ tát Văn Thù là căn bản trí là trí gốc. Có sẵn nơi mỗi người, cầm dao mổ bụng rửa ruột là dẹp sạch hết vô minh phiền não, trao cho diệu dược là phát ra diệu dụng. Từ đó Ngài sạch hết vô minh phiền não, cho nên từ khi mộng về sau, những sở tập nơi tâm Ngài được khế hợp. Ngài không đắn đo, cần thì phát ngôn không nghĩ được ngôn ngữ tam muội giảng kinh thuyết pháp thao thao.
Ngôn ngữ tam muội là nói năng trong chánh định. Nói năng là động làm sao định được ? Sở dĩ ở đây nói ngôn ngữ tam muội là vì người nhập được thể Viên Giác rồi, lúc nói không suy nghĩ, không đắn đo, cần thì phát ngôn không nghĩ ngợi, nên nói ngôn ngữ tam muội. Người thường người thường muốn nói phải suy nghĩ lựa lời rồi mới nói, nói như thế chưa phải là ngôn ngữ tam muội. còn Ngài thì giảng nói thao thao, không lắp bắp ngần ngại nên gọi là ngôn ngữ tam muội.

(5) Về sau, ông tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Đệ tử từ khắp nơi đổ về theo học rất đông.[1]
Sách Thiền uyển tập anh có kể lại 1 đoạn đối thoại về Thiền giữa Viên Chiếu với đệ tử:
Có vị tăng hỏi: “Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?”
Sư đáp:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Dịch thơ:
Trùng dương cúc nở dưới rào
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
Tăng thưa: “Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?”
Sư đáp:
Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh.
Dịch thơ:
Ngày thì vầng nhật chiếu
Đêm đến ánh trăng soi.
Tăng hỏi: “Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?”
Sư đáp:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ
Nhất tao tha điệt hối hà chi.
Dịch thơ:
Bưng thau nước đầy không chú ý
Một lúc sẩy chân hối ích gì.
Tăng hỏi: “Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?”
Sư đáp:
Manh qui xuyên thạch bích
Ba miết thướng cao sơn.
Dịch thơ:
Rùa mù dùi vách đá
Trạnh què trèo núi cao
Tăng hỏi: “Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?”
Sư đáp:
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.
Dịch thơ:
Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc
Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.

(6) Tham Đồ hiển quyết gồm 108 câu hỏi đáp giữa thiền sư và đệ tử.
Toàn bộ các thiền ngữ, thoại đầu có màu sắc công án trong tác phẩm đều là những bài học tâm linh hướng tới giải thoát.
Điều đặc biệt là câu hỏi bao giờ cũng hướng tới một đáp án rất cụ thể, và câu trả lời bao giờ cũng rất mơ hồ. Người hỏi muốn có câu trả lời rõ ràng để tu tập đúng hướng, sớm liễu ngộ Phật đạo. Người trả lời lại dùng một thứ ngôn ngữ ẩn nghĩa khác hẳn, với dụng ý “dường như” khác hẳn. Sau mỗi câu trả lời là một khoảng trống mênh mông, cho thấy mục đích của người thầy lớn hơn mục đích của học trò. Học trò hỏi để hiểu, nhưng thầy trả lại cho học trò sự siêu việt hỏi đáp.

(7) Một tác phẩm vừa tràn đầy trọng trách thuyết pháp theo nghĩa nào đó, nhưng lại thoát ly một cách tinh tế và diệu mật những đòi hỏi qui phạm của loại hình văn chương tôn giáo thời trung đại là một hiện tượng văn học đặc biệt để người đọc nhiều thời có thể tìm thấy những cách đọc phong phú hơn, sâu sắc hơn.
Về bản chất, có thể nói TĐHQ là một tác phẩm đi giữa thể loại đối cơ, ngữ lục và sự hồn nhiên thơ ca, giữa tôn giáo và nghệ thuật, giữa sự sâu sắc triết lý với sự bay bổng của nội tâm sáng trong. Sự hô ứng giữa thoại đầu, thiền ngữ và các câu thơ cho thấy một sự chuyển hóa rất đặc biệt giữa tính chức năng và vẻ đẹp vô tâm của tác phẩm. Năng lực chuyển hóa này, hình như, không phải là một khuynh hướng dồi dào trong nền văn hóa tâm linh người Việt (ít nhất là xét trong phạm vi thời sơ kỳ trung đại). Nhiều tác phẩm thiền học giai đoạn này đều sử dụng kiểu ngôn ngữ hoằng pháp rất rõ, dụng ý tôn giáo mạnh, dù đôi lúc có “ngâm ngợi” như một hình thức vịnh, tán nhưng về cơ bản, vẫn không làm hiển lộ phẩm chất tự nhiên của ngôn từ nghệ thuật.

(8) Sư có soạn Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoadâng cho vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem xong, các Ngài tâu vua Tống rằng :
Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua Tống liền sắc sao một bản, bản chính liền trả lại cho vua ta. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư”.
Ngày xưa người Trung Hoa tự xem nước họ là nước lớn ở giữa, những nước nhỏ ở chung quanh, họ cho là những nước nhược tiểu. Việt Nam chúng ta cũng bị ở trong cảnh đó, vì vậy mỗi năm phải triều cống để giữ mối giao hòa. Và, văn học của chúng ta ngày xưa cũng bị lệ thuộc Trung Hoa, nên họ rất xem thường người Việt Nam. Thế mà khi đọc quyển Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn của thiền sư Viên Chiếu, các vị pháp sư đều khen và nói không dám thêm bớt một chữ. Đó là lòng kính trọng của họ đối với Ngài người nước nhược tiểu, khiến cho vua và triều đình Việt Nam càng kính trọng Ngài.
Tác phẩm gồm có:
– Tán Viên Giác Kinh.
– Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
– Tham Đồ Hiển Quyết.
– Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Các tác phẩm của Ngài đều bị mất, chỉ còn quyển Tham Đồ Hiển Quyết

(9) “Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ 6 (1090) đời Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:
– Trong thân ta đây, xương lóng gân mạch, bốn đại hòa hợp, ắt phải vô thường. Ví như ngôi nhà khi hoại, nóc mái, xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ:
Thân như tường bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
Dịch :
Thân như tường vách đã lung lay,
Đau đáu người đời luống xót thay.
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ 92 tuổi, 56 tuổi hạ.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.