Lục Vân Tiên

Trước đèn xem truyện Tây minh, (1)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.(2)
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao (3)
Văn đà khởi phung đằng giao, (4)
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân tiên vào tạ tôn sư xin về:
“Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây, (5)
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa.(6)
Làm trai trong cõi người ta,
Trước là báo bổ sau là hiển vang”.(7)
Tôn sư khi ấy luận bàn:
“Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời chẳng dám nói ra,(8)
Xui thầy thương tới xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong.
Phải toan một phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.(9)
Chẳng may mà gặp lúc nghèo, (10)
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an”.
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn trong lòng sinh nghi:
“Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà,
Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an”.
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng : “Vạn lý trường đồ,
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?”
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
“Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
Song đường tuổi hạc đã cao,(11)
Xin thầy nói lại âm hao con tường”.(12)
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:(13)
“Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi.
Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạng tử vi thêm loà.(14)
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan.(15)
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.(16)
Trong cơ bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn”.
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi nhớ lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: “Thiên các nhứt phương.(17)
Thầy đeo đoản thảm tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên.(18)
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay”.(19)
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: “Bớ chú cõng con,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?”
Dân rằng: “Tiểu tử là ai,
Hay là một đảng sơn đài theo tao?”(20)
Tiên rằng: “Cớ sự làm sao,
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời”.
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
“Nhơn rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương.
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.(21)
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.(22)
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình”.(23)
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: “Lũ nó còn đình nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.
Dân rằng: “Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.(24)
E khi hoạ hổ bất thành(25)
Khi không mình lại xô mình xuống hang”.(26)
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ lũ hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ tại mầy.
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng”.
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.(27)
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than thóc ở trong xe này?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới làm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”.
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này, (28)
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra”.
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì thiếp tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi yếu liễu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng thì không.
Gẫm câu báo đức thù công,(29)
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.(30)
Đó mà biết chữ thỉ chung,
Lựa là đây phải theo cùng làm chi”.
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?”
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”.
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na: (31)
“Vậy chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,(32)
Lòng chê cũng phải lòng ngơ sao đành”.
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây.(33)
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của này rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng ngãi khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đứng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm”.
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ao cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ”.
Vân Tiên ngó lại rằng: “ừ,
Làm thơ cho kịp bấy chừ chẳng lâu”.
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu văn vần:
“Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?”
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,(34)
Ai dè sức gái tài cao bực này.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi.(35)
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì,(36)
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai(37)
Có câu xúc cảnh hứng hoài,(38)
Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình.
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương.
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyệt cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.(39)
Hữu tình chi bấy Ngưu lang, (40)
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
Trải qua dấu thỏ đường dê,(41)
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi.
Hỏi rằng: “Nào kẻ tuỳ nhi,(42)
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?”
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình,(43)
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy bùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn:(44)
“Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng”.(45)
Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: “Con hãy nghỉ an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân đến đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chày,(46)
Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui,
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già”.
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chân ra chốn hoa đình,(47)
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn.
Than rằng: “Lưu thuỷ cao sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm,(48)
Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền”.
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Hoạ ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: “Ngàn dặm sơn xuyên,(49)
Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu”.


(1) Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm.

(2) Hai tám: 16 tuổi

(3) Sân Trình: Chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Tống nho nổi tiếng.

(4) Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài.

(5) Ý nói quyết thi đỗ.

(6) Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)

(7) Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy

(8) Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)

(9) Phù thần: bùa hộ mệnh

(10) Hiểm nghèo

(11) Song đường: xuân đường, huyên đường (cha mẹ). Tuổi hạc: tuổi thọ.

(12) Âm hao: tin tức

(13) Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)

(14) Sao Thiên Khôi (sao văn học, thi cử) và sao Tử vi (thân mệnh) đều sáng rỡ

(15) Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)

(16) Tiền trình: con đường phía trước

(17) Mỗi người một phương trời

(18) Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.

(19) Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua.

(20) Đảng sơn đài: Đảng cướp núi.

(21) Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời.

(22) Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ.

(23) Âu (ưu): lo

(24) Qua: ta; bậu: ngươi (bạn, anh bạn).

(25) Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại.

(26) Khi không: không dưng.

(27) Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị.

(28) Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn.

(29) Báo trả ơn đức, đền đáp công lao.

(30) Luận ngữ: “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”, nghĩa là : Thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng.

(31) Thìn: răn, giữ.

(32) Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị.

(33) Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào.

(34) Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm.

(35) Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ.

(36) Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ

(37) Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hoà. Đây nói thơ xướng hoạ, tinh ý rất xứng hợp nhau.

(38) Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ.

(39) Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ (theo chồng).

(40) Ngưu lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ.

(41) Dấu thỏ đường dê: nơi xa xôi hẻo lánh, không vết chân người, chỉ có dấu chân thỏ, chân dê rừng.

(42) Tuỳ nhi: trẻ theo hầu.

(43) Tiền trình: việc đi đường vừa rồi.

(44) Đòi cơn: nhiều cơn.

(45) No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào.

(46) Sao sao: dù thế nào.

(47) Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa.

(48) Thâm: sâu

(49) Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở.

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.