Như những con người, tất cả chúng ta giống nhau; xét cho cùng tất cả chúng ta thuộc cùng một hành tinh. Tất cả chúng sinh có cùng bản chất tự bẩm sinh là muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tất cả chúng ta yêu mến chính mình và khao khát điều gì đấy tốt đẹp. Bây giờ, như tận cùng của sự phát triển vật chất được quan tâm, chúng ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, và mỗi quốc gia trên hành tinh này đang hướng đến những phương tiện thuận lợi hơn vàđang cố gắng để tạo nên một xã hội phồn vinh hơn.
Cuối cùng chúng ta có thể đạt được điều ấy. Tuy nhiên, sự phát triển vật chất đơn thuần thôi thì không đầy đủ cho hạnh phúc của con người. Lý do là rất đơn giản: con người không phải là sản phẩm của máy móc; chúng ta là điều gì đấy hơn thế ấy. Do thế, chúng ta cần những gì hơn những đối tượng ngoại tại nhằm để hạnh phúc.
Điều quan trọng nhất là trong đời sống là tình cảm con người. Không có nó, chúng ta không thể đạt đến hạnh phúc chân thật. Và nếu chúng ta muốn mộtđời sống hạnh phúc hơn, một gia đình hạnh phúc hơn, những hàng xóm hạnh phúc hơn hay một quốc gia hạnh phúc hơn, chìa khóa là phẩm chất nội tại. Ngay cả nếu năm triệu con người cư ngụ trên trái đất đều trở thành những tỉ phú, không có sự phát triển nội tại thì không thể có hòa bình hay bất cứ sự hạnh phúc bền lâu nào. Một số người nào đó có thể rất giàu, nhưng chúng ta thường thấy rằng họ hoàn toàn không hạnh phúc. Tình cảm, từ ái, và bi mẫn là một số yếu tốquan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta. Sự hòa bình của tâm hồn là thiết yếu cho sức khỏe tốt lành. Dĩ nhiên, những phương tiện thuận lợi, thuốc men và thực phẩm đúng mức cũng làm nên những sự khác biệt. Nhưng hạnh phúc là nhân tố quan trọng nhất cho sức khỏe tốt đẹp.
Mỗi người hãy quan tâm đến hòa bình thế giới. Vũ khí hay sức mạnh quân sự, dưới những hoàn cảnh nào đó vào những thời điểm nào đó, có thể sản sinh nền hòa bình tương đối. Tuy thế, về lâu dài, không thể đem đến một nền hòa bình chân thành và trường cửu cho thế giới qua đối đầu quân sự, hay thù hận và nghi ngờ. Nền hòa bình thế giới phải được phát triển qua sự hòa bình của tâm hồn, sự tin cậy hổ tương và tôn trọng lẫn nhau. Đề đạt đến những thứ này, xét cho cùng, tâm bi mẫn hay lòng vị tha là nhân tố then chốt.
Chúng ta hãy quan tâm đến sự nổi bật của một gia đình hạnh phúc. Điều quan trọng nhất là tình cảm. Cho dù chúng ta thành công trong đời sống hay không, lệ thuộc nhiều trên không khí mà chúng ta lớn lên. Trẻ con từ một gia đình đầy lòng từ ái và bi mẫn là những con người hạnh phúc hơn và thành công hơn. Trái lại, đời sống một đứa trẻ có thể bị tàn lụi nếu lớn lên trong sợ hãi và thiếu vắng lòng thương hay tình cảm.
Tình cảm đến từ nơi nào và chúng ta có thể phát triển hay tăng trưởng tình cảm con người như thế nào? Cho đến khi nào tâm thức con người còn tồn tại, hạt giống của tình cảm cũng tồn tại. Mặc dù những tư tưởng và cảm xúc tiêu cực hay tích cực là những bộ phận của tâm con người, nhưng năng lực vượt trội trong thức hay trong đời sống con người là tình cảm. Do thế, hạt giống của bi mẫn là một bộ phận bản chất của con người ngay từ lúc mới sinh ra. Khi chúng ta sinh ra, chúng ta tự do với mọi học thuyết và tôn giáo đến sau này, nhưng chúng ta không tự do với nhu cầu cho tình cảm con người. Một trẻ thơ không thể tồn tại mà không có tình cảm.
Tình cảm là một yếu tố quan trọng trong nhận thức. Tình cảm và bi mẫn của con người không chỉ là yêu thương hay tìm kiếm sựvui thích. Lòng bi mẫn chân thành không chỉ là về sự thông cảm hay một cảm giác gần gũi, nhưng cũng là một cảm nhận trách nhiệm. Lòng bi mẫn chân thành được phát sinh khi chúng ta nhận ra rằng con người đau khổ hay thiếu vắng hạnh phúc hay phát đạt cũng muốn hạnh phúc như chúng ta. Bi mẫn là về việc phát triển sựquan tâm chân thành cho họ.
Thông thường chúng ta nghĩ về bi mẫn như một cảm giác của sự gần gũi đối với bạn bè chúng ta nhưng đấy là một quan điểm bị nhiễm ô bởi vọng tưởng. Cho đến khi mà người ấy vẫn là một bạn hữu thân thích, chúng ta có một thái độ tích cực đối với người ấy. Nhưng ngay khi mà thái độ người ấy thay đổi hay ngay lúc cảm giác của chúng ta đối với người ấy thay đổi, lòng bi mẫn [phiến diện ấy] cũng chấm dứt hiện hữu. Điều này không thật sự là lòng bi mẫn, nhưngđúng hơn là sự dính mắc.
Lòng bi mẫn chân thành liên hệ đến sự phân tích hoàn cảnh bất chấp người ấy là gần gũi hay không. Sự kiện tồn tại là người ấy có một rắc rối và đang khổ đau, và có cùng quyền như chúng ta như hành động đềvượt thắng khổ đau và để hạnh phúc.
Hôn nhân và sự thụ thai không là những kết quả của tình yêu cuồng nhiệt mà thôi. Nó đến từ việc thấu hiều lẫn nhau tường tận. Khi chúng ta biết thái độtinh thần của người phối ngẫu cũng như những khía cạnh vật lý của người ấy, thì chúng ta có thể phát triển lòng tin cậy và tôn trọng hổ tương. Chỉ trên căn bản ấy mà hôn nhân mới có thể xảy ra. Có một cảm giác trách nhiệm liên hệ. Nhận thức của con người phải nên được xảy ra dưới những hoàn cảnh như thế ấy.
Nhưnhững con người, chúng ta có sự thông minh và những năng lực ngoại lệ. Những ai có sự thông minh hơn là có viễn kiến xa hơn, và những ai có một vieenc kiến xa hơn có thể một trách nhiệm lớn hơn đối với chính họ cũng như những người khác. Trong thực tế, con người không chỉ có trách nhiệm đối với những con người khác mà cho cả sự cát tường đối với những chúng sinh khác cũng như hành tinh của chúng ta. Nếu chúng ta sử dụng óc thông minh và những năng lực của chúng ta trong một thái độ tàn phá, nó sẽ đưa đến kết quả trong thảm họa và bi kịch. Thay vì thế, chúng ta phải sử dụng chúng một cách xây dựng. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng những ai với óc thông minh và khả năng ngoại hạng lại lợi dụng người khác hay những việc khác vì lợi ích riêng của họ sẽ kết thúc trong sự ân hận sâu xa.
Tôi nghĩ rằng cả con người và thú vật đều có một sự thấu hiểu bẩm sinh cho sự thật. Nếu chúng ta đối xử với những con chó hay mèo một cách chân thành, chúng cảm kích điều ấy. Nếu chúng ta lừa dối chúng, chúng nhận ra và không thích. Nếu con người giao tiếp một cách chân thật với người khác, điều ấy sẽ được cảm nhận. Nếu chúng ta lừa đảo người khác, họ sẽ đáp ứng một cách tương ứng, cho dù họ là người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, giàu hay nghèo, học vấn hay không. Do thế, bi mẫn và trung thực hiện hữu bởi vì chúng ta không muốn lừa dối con người và bởi vì chúng ta cùng có quyền để hạnh phúc như nhau. Bi mẫn, như tôi đã đề cập phía trước, là một sự phối hợp của thông cảm và quan tâm, một cảm giác của sựthân cận với một cảm nhận của trách nhiệm.
Một số người nghĩ rằng bi mẫn, từ ái, và tha thứ là những vấn đề của tôn giáo. Điều này sai lầm. Từ ái và bi mẫn là cốt lõi. Không có cách nào mà chúng ta có thể quên lãng những thứ này, cho dù chúng ta là một người có tín ngưỡng hay không. Chúng là cần thiết nếu chúng ta muốn hạnh phúc và nếu chúng ta muốn là một công dân tốt. Theo như mức độ mà tôn giáo được quan tâm, nếu việc chấp nhận một tôn giáo làm cho chúng ta cảm thấy thoải mái, thế thì chúng ta nên tiếp nhận tôn giáo ấy. Nếu chúng ta không muốn thế,thì chẳng hề gì: hãy rời nó đi. Nhưng thật quan trọng để thấu hiểu bản chất của bi mẫn, bởi vì nó là phẩm chất căn bản và cần thiết của con người.
Hạnh phúc là tinh thần. Máy móc không thểcung ứng nó, mà chúng ta cũng không thể mua nó. Tiền bạc và sự giàu sang chỉ là một bộ phận của hạnh phúc, không phải là chính hạnh phúc. Những thứ này không thểphát sinh hạnh phúc một cách trực tiếp. Hạnh phúc phải được phát triển trong chính chúng ta; không ai có thể ban nó cho chúng ta. Cội nguồn căn bản của nó là sự tĩnh lặng hay hòa bình của tâm hồn. Nó không tùy thuộc vào những nhân tố ngoại tại. Chẳng hề gì nếu chúng ta thiếu những phương tiện thuận lợi tốt lành, một sự học vấn tốt đẹp hay một đời sống thành công, nếu khi chúng ta có sự vững tin nội tại.
Quan tâm và lưu ý đến người khác, và tình cảm con người. là những nhân tố cực kỳquan trọng cho sự hạnh phúc của chúng ta. Bi mẫn cho chúng ta sức mạnh nội tại, và một cảm giác quý giá bên trong.
Hãy cố gắng để trở thành một con người tốt lành với một trái tim nồng ấm, bất chấp chúng ta là một chính trị gia, một con người của tôn giáo, một thương gia hay bất cứ người gì đi nữa. Thái độ của một người có thể đóng góp cho việc làm nên một gia đình và một cộng đồng hạnh phúc hơn.
Những tôn giáo khác nhau hình thành vào những thời điểm và nơi chốn khác nhau. Tôi cảm thấy rằng những tôn giáo đa dạng đơn giản là để làm cho mạnh mẽnhững phẩm chất tốt đẹp của con người; là giảm thiểu tối đa những tính chất tiêu cực trong khi khuếch trương tối đa những phẩm chất tích cực. Tất cả những tôn giáo quan trọng của thế giới có cùng thông điệp nếu như thương yêu và từ bi được quan tâm, mặc dù sự biểu lộcó thể khác nhau. Tất cả các tôn giáo nhận ra tầm quan trọng của yêu thương và tha thứ và có khả năng để tạo ra và tăng cường những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Có hai đặc trưng của các tôn giáo. Một nhóm tôn giáo tôi gọi là tôn giáo hữu thần, chẳng hạn như Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, và Ấn Độ Giáo. Những tôn giáo này duy trì một nền tảng tin tưởng trong Thượng Đế. Một nhóm tôn giáo khác tôi gọi là tôn giáo không có Thượng Đế, chẳng hạn như Phật Giáo, Kỳ Na Giáo và triết thuyết Sankhya (một cấu thành cổ truyền phức tạp của Ấn Giáo), tin tưởng không có Thượng Đế,không có đấng tạo hóa và không có đấng toàn năng. Một cách căn bản, đấng tạo hóa chính là tự ngã của con người. Một nhóm, chính yếu là Phật Giáo, không chấp nhận một linh hồn thường tại. Điều này phân ranh giới giữa người Phật Giáo và không Phật Giáo. Giáo thuyết nền tảng của Đạo Phật là không có linh hồn hay tự ngã thường tại. Trong Đạo Phật, có hai nhóm phân biệt trên căn bản của động cơ: Tiểu Thừa và Đại Thừa. Động cơ của Tiểu Thừa quan tâm một cách chính yếu vào sự giải thoát riêng hay sự cứu độ của cá nhân một người qua sự thực hành hạnh kiểm đạo đức và sự hội tụ của tâm thức và tuệ trí. Động cơ của Đại Thừa là không chỉ nghĩ về cá nhân, mà phải quan tâm đến tất cả chúng sinh và theo đuổi sự thực tập sáu hay mười ba la mật, hay toàn thiện, để một cách căn bản đạt đến Quả Phật. Đây là Bồ Tát Thừa.
Trên căn bản giáo thuyết triết lý có bốn[1]trường phái tư tưởng khác nhau: Tỳ Bà Sa Luận Sư, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức và Trung Quán. Cốt lõi của Đạo Phật được hướng dẫn theo tất cả những trường phái này là bất bạo động, hay ahimsa. Tại sao bất bạo động là quan trọng như thế? Do bởi luật phụ thuộc duyên khởi: rằng tất cảmọi thứ là liên hệ với nhau. Thí dụ, sựsống còn tùy thuộc trên nhiều nhân tố cũng như hạnh phúc của chúng ta. Tương tự thế, khổ đau và thảm họa lệ thuộc trên nhiều nhân tố, giống như chúng ta quan tâm với niềm hạnh phúc và kinh nghiệm của chính mình,thì chúng ta phải lưu ý đến những nguyên nhân của chúng.
Thếnên, căn bản của triết thuyết và sự hướng dẫn của Đạo Phật là bất bạo động và triết lý phụ thuộc duyên khởi, một cách tương ứng. Bất bạo động ở đây có hai chỉ dẫn: nếu bạn có thể, hãy giúp đở và phục vụ chúng sinh khác; nếu không thể, thế thì tối thiểu đừng làm tổn hại người khác.
Triết lý phụ thuộc duyên sinh được diễn dịch một cách khác nhau tùy theo những hệ thống khác nhau. Theo một hệ thống, ý nghĩa của phụ thuộc tương duyên là tất cả mọi hiện tượng duyên sinh phụ thuộc trên những nguyên nhân. Điều này hàm ý rằng không có đấng tạo hóa; mọi vật tùy thuộc chỉ trên nguyên nhân của chúng và lần lượt có những nguyên nhân của chính chúng, mà không có sự bắt đầu. Mọi thứ thay đổi do bởi những nguyên nhân vàđiều kiện này. Những hoàn cảnh mới tạo ra những sự kiện mới; những thứ này lại lần lượt hoạt động như những nguyên nhân và sản sinh điều gì đấy khác biệt và mới mẻ. Đây là tiến trình của sự tùy thuộc duyên sinh: lý duyên khởi – pratityasamutpada.
Khái niệm tương duyên sinh khởi được chấp nhận bởi tất cả các trường phái của Đạo Phật. Giáo thuyết duyên khởi được mở rộng bởi triết lý Trung Quán chạm đến một trình độ cao thâm hơn mà trong ấy lý duyên khởi liên hệ mọi thứ lệ thuộc trên từng bộ phận của nó. Thí dụ, nếu nó là một đối tượng vật lý, nó có những bộ phận khác nhau trong ý nghĩa của việc có những phương hướng khác nhau. Nếu nó không có hình sắc, như ý thức, ý nghĩa của việc có những bộ phận có thể được thấu hiểu trong dạng thức của những trình độ khác nhau của sự tương tục hay một dòng suối. Tương tự thế, không gian có thể được xem là duyên khởi bởi vì chúng ta có thể liên hệ đến không gian như có những bộ phận và chúng ta có thể nghĩ về một không gian đặc thù với sự liên hệ đến những đối tượng và phương hướng đặc thù.
Duyên khởi vì thế không chỉ mở rộng được giảng giải chi tiết trong dạng thức của sự lệthuộc trên nguyên nhân và điều kiện, nhưng cũng trên dạng thức phụ thuộc trên những bộ phận và phương hướng.
Trìnhđộ vi tế hơn của duyên khởi được diễn giải bằng việc sử dụng mệnh đề “sinh khởi qua sự mệnh danh hay quy cho.” Khi chúng ta khảo sát, thí dụ thế, một bông hoa thật sự là gì, và thẩm nghiệm những phân tử của nó, bông hoa không còn là bông hoa như chúng ta biết. Khảo sát xa hơn về những phần tử nhỏ hơn giúp chúng ta thấu hiểu rằng khi chúng ta đặt tên điều gì đó sự mệnh danh ấy được cho phép do bởi sự hội tụ của những phân tử hay thực chất nào đó. Những phần tử này tập họp lại để thể hiện chức năng như một thực thể và chúng ta đặt cho nó một cái tên đặc thù. Nếu chúng ta khảo sát “tôi là ai?” chúng ta sẽ thất bại trong việc tìm ra một cái “tôi” tách rời khỏi thân thể, não bộ, hay kinh nghiệm này. Nếu chúng ta đi sâu vào hơn bản chất thiết yếu của một người, chúng ta không thểtìm ra một tính chất độc lập và cơ bản. Chúng ta mệnh danh sự phối hợp của thân thể và tâm thức và nói, “đây là một con người.” Phần thịt xương và tâm thức này đến từ Amdo, chúng ta gán cho là “Đạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso.” Tuy nhiên, sau nhiều sự phân tích, nếu chúng ta muốn tìm kiếm Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta không thể tìm thấy ngài.
Tương tự thế, chúng ta thường sử dụng thuật ngữ “quá khứ”, “hiện tại” và “tương lai”. Trong một phương diện, quá khứ chỉ thuần là ký ức, tương lại chỉ là suy tư của chúng ta, một chương trình hay một ý tưởng. Hiện tại là thật. Nếu chúng ta nghĩ về vô số kiếp hiện tại, thế kỷ hiện tại, rồi thì trong năm 1992, hôm nay, ngày 15 tháng Hai, phút, giây, một phần của giây dừng lại là “hiện tại”. Chỉ khoảnh khắc này. Quá khứ đã qua. Sau khoảnh khắc này, tương lai chưa đến. Không có “hiện tại”. Không có một hiện tại chúng ta không thể xác định “quá khứ” và “tương lai”. Thời gian tiếp diễn không một sự ngừng nghĩ,chỉ đi tới. Điều này đưa đến kết quả rối rắm si mê.
Điều này theo như thời gian ngoại tại được liên hệ. Trong kinh nghiệm nội tại, xét cho cùng, tôi nghĩ rằng không có quá khứvà không có tương lai – chỉ có hiện tại. Nhưng nếu không có quá khứ và tương lai, thì sẽ không thể có hiện tại vì hiện tại phụ thuộc hoàn toàn vào quá khứ, và tương lai lệ thuộc hoàn toàn vào hiện tại. Đây là quy luật tự nhiên. Trái lại sẽ không có thời gian nào khác. Khi chúng ta nói “thời gian” dĩnhiên thời gian tồn tại, nhưng nếu không có một sở cứ quy cho hay liên hệ trênđiều mà chúng ta gán cho nó; thì chúng ta không thể có một cảm nhận trừu tượng về thời gian. Nếu chúng ta khảo sát, chúng ta thật sự không tìm ra điều gì. Một cách căn bản, chúng ta tìm ra điều gì đấy mà nó là “trống rỗng.”
Tuy nhiên, sự trống rỗng này không chỉ là không có gì cả. Vì tất cả mọi thứ là phụ thuộc duyên sinh, những tính chất độc lập hay thực thể không tồn tại. Khi chúng ta khảo sát bản chất tối hậu của mọi thứ, chúng ta thấy đấy là việc vắng bóng của sự tồn tại độc lập. Đây là những gì chúng ta gọi là “trống rỗng”. Bây giờ, việc vắng bóng của sự tồn tại độc lập tự nó tùy thuộc vào những nhân tố khác.
Tôi ở đây và việc này không phải là một giấc mơ. Việc này không phải là một ảo tưởng. Đấy là thật. Nếu tôi tự véo tôi một cái, tôi cảm thấy đau bởi vì tôi có một thân thể. Tôi có ngón trỏ và ngón cái và chúng biểu hiện chức năng. Do vậy, xét cho cùng, có điều gì đấy và chúng ta chưa thể tìm ra trong sự phân tích cơ bản. Nói cách khác, tính không và bản chất duyên khởi tương sinh là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Đức Phật đầu tiên đã dạy về Bốn Chân Lý Cao Quý – Tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệtđế, và Đạo đế. Ngài đã dạy chúng bởi vìđau khổ có những nguyên nhân và điều kiện của nó và chúng tôi không muốn khổ đau. Ngài đã nói về cội nguồn của khổ đau. Đức Phật đã dạy chúng ta để xác định khổ đau cũng như nguyên nhân của nó trong những trình độ khác nhau.
Mục tiêu của chúng ta là hạnh phúc, là điều xét cho cùng lệ thuộc trên những nguyên nhân của nó. Hạnh phúc có thể tạm thời hay thường trực. Hạnh phúc thường trực là quan trọng hơn, là điều tại sao Đức Phật dạy về chân lý thứ ba – là diệt đếhay sự chấm dứt thật sự; sự chấm dứt khổ đau là đạt đến niết bàn, hay thể trạng hạnh phúc an lạc. Ngài cũng nói vềphương tiện mà qua đó chúng ta có thể hiện thực thể trạng chấm dứt khổ đau. Đấy là con đường đúng đắn.