Chết Đi Về Đâu

CHIM ƯNG TRUNG THÀNH

Câu chuyện dân gian Ấn Độ kể lại có một vị vua rất thích đi săn. Ông có một con chim ưng rất giỏi. Mỗi khi cưỡi ngựa vào rừng đi săn, chim ưng là con vật đậu và đứng trên vai ông. Là vị vua của muôn dân trăm họ, đứng trên hết tất cả mọi thần dân, thế mà chỉ có con chim ưng được phép đứng trên vai ông. Điều đó cho thấy vua rất thương con chim ưng này.

Sau mỗi chuyến đi, vua thường có thêm niềm vui là những con mồi ngon nhờ vào tài phát hiện và chỉ điểm của con chim ưng. Một hôm, như thường lệ sau mỗi chuyến săn bắn, đoàn tùy tùng thường dâng lên cho vua một loại thức uống để giải khát. Thế nhưng ngày hôm đó, nhiều loại thức uống hảo hạng được chuẩn bị sẵn đều không làm vua thỏa mãn. Ông bèn yêu cầu đoàn tùy tùng tiến tới mỏm núi cao ở phía trước, nơi đó có những giọt sương còn đọng lại và đang nhễu xuống từng giọt. Vua yêu cầu người hầu cận hãy hứng lấy những giọt nước tinh khiết này mang đến cho ông.

Người hầu cận dùng chiếc bình nhỏ hứng một lúc sau thì đầy bèn đem dâng cho vua. Bỗng nhiên, con chim ưng đang đứng trên vai vỗ cánh hất đổ bình nước. Điều này đã làm vua rất bực mình, khó chịu nhưng vì thương nó nên vua bỏ qua. Ông yêu cầu người hầu cận hãy hứng một bình khác cho ông. Sau vài mươi phút, bình nước thứ hai mới được hứng đầy, người hầu cận lại đem đến dâng vua; và một lần nữa con chim ưng lại vỗ cánh hất tung bình nước đó. Vua không còn bình tĩnh, kềm chế được cơn tức giận của mình, ông dùng tay chụp lấy chân của con chim và quẳng xuống đất thật mạnh, chim ưng bị gãy cổ và chết ngay tại chỗ.

Sau đó, vua yêu cầu đoàn tùy tùng dùng kiệu đưa ông tìm lên đầu nguồn của giọt nước để hứng lấy nhanh hơn. Lúc đó, ông không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy cảnh tượng một con rắn hổ mang đang nằm chết ngay nơi đó. Độc tố của nó đã nhễu ra, loang trên nguồn nước và đang nhỏ xuống. Do vì không nhìn thấy nên người hầu cận đã hai lần hứng nước này dâng vua.

Tánh linh của con chim ưng đã phát hiện trong hai bình nước dâng vua đều có độc tố của con rắn, nhưng vì ngôn ngữ truyền thông giữa loài người và loài vật khác nhau, vua không có năng lực tha tâm thông để hiểu được ngôn ngữ biểu đạt của loài vật, nên đã tạo ra cái chết oan uổng cho chim ưng. Con chim trung thành, biết nhìn xa thấy rộng và luôn đặt tánh mạng an toàn cho chủ nhân lên trên hết. Vua rất đau buồn vì hành động sai lầm của mình nên đã tổ chức lễ tang trọng thể cho chim ưng.

Những lúc trò chuyện, Người Ấn Độ thường kể cho nhau nghe về câu chuyện đó với dụng ý nhắc nhở con người đừng nên trung thành quá mức. Bởi trên thực tế có những điều tuy biết nhưng đôi lúc nói ra không có lợi cho bản thân, mà trái lại còn ảnh hưởng đến tính mạng như sự kiện chim ưng là một điển hình. Túi khôn trong ứng xử nhân gian Ấn Độ khuyến tấn con người phải biết tùy từng tình huống mà nói, nếu cảm thấy điều mình nói ra như một phát ngôn, thông tin mang lợi lạc đến cho người khác thì mới nên thể hiện; bằng không hãy nên giữ yên lặng. Tôi xin tiếp cận câu chuyện không ở góc độ trên, mà ở góc độ liên hệ đến nội dung chết đi về đâu.

Vì sự trung thành và tấm lòng thương kính với người chủ, chim ưng đã chết, đó là cái chết trung kiên. Ở đây có hai phản ứng cảm xúc được diễn ra trong tình huống này:

Thứ nhất, nếu chim ưng là loài dễ giận hờn, vui cảm thì chắc chắn sau cái chết để lại trong nó dòng cảm xúc uất hận rất lớn. Mặc dù không có máy móc thiết bị để đo và cảm nhận được sự uất hận đó ở mức độ nào, nhưng chắc chắn phản ứng kéo theo sau sẽ là cá tính nhạy cảm, vui buồn lẫn lộn giống như cách thức phản ứng của con người. Trong tình huống của nỗi uất hận có thể tạo ra phản ứng tâm lý tiêu cực về quan niệm và thái độ. Dĩ

nhiên, cái chết đó là một nghĩa cử trung kiên, theo tiến trình tái sanh, chim ưng có thể tái sinh làm lại con vật hoặc con người với nghĩa khí cương trực, lấy quyền lợi của cộng đồng, tập thể và quốc gia đặt lên hàng đầu so với sự sống còn của cá nhân. Thông thường, tính cách tâm lý của một nhân vật khi chào đời có mối quan hệ mật thiết với tính cách tâm lý tiền thân của nhân vật đó trong quá khứ theo cách thức tương đối nhất định.

Thứ hai, mặc dù chim ưng này bị chết nhưng vì hiểu được sứ mệnh của nó là mang lại niềm vui và giá trị hạnh phúc cho chủ nhân, nên cái chết đó vẫn làm cho nó hài lòng. Đây là nghĩa cử cao thượng mà những người hầu cận cho vua không có linh tính để làm được việc này.

Sự hài lòng đó mang lại giá trị nhân quả có ý nghĩa cho tiến trình ra đi, không để lại bất kỳ dòng cảm xúc hối hận nào về hành động hay việc làm tốt của mình. Theo tâm lý học Phật giáo, trạng thái và dòng cảm xúc hối hận tạo ra nguồn năng lượng, mà chức năng của nó có thể tiêu diệt, hủy hoại những năng lực mang tính cách đối lập trước đó. Do đó về bản chất đạo đức, sự hối hận chỉ là trung tính, phải dựa vào nội dung mới có thể xác định tính cách tâm lý đó là tích cực hay tiêu cực.

Chẳng hạn trong tình huống của chim ưng, nếu nó hối tiếc về nghĩa cử cao thượng đã làm cho nhà vua – chủ nhân của nó để phải dẫn đến cái chết oan uổng như thế thì sự hối hận này là một hành vi, cảm xúc bất thiện. Phản ứng tâm lý bất thiện này thể hiện khi tái sinh trong tương lai sẽ là thái độ bàng quan, thiếu trách nhiệm, sự dấn thân và hy sinh cần thiết trước bất kỳ một nghĩa cử hay tình huống cao thượng nào. Khi ấy, nó sẽ là người tình nguyện đứng ngoài cuộc, bởi vì nỗi đau trong quá khứ, vì nghĩa cử cao đẹp mà phải dẫn đến cái chết oan uổng như thế. Chính điều này đã tạo thành phản ứng trấn an, dè dặt và phòng hộ trước bất kỳ tình huống tương tự nào. Ngược lại, trong tình

huống nỗi niềm hối tiếc về một việc xấu đã làm, đó chính là năng lực của sự hồi đầu. Nếu xét về bản chất tâm lý học, nó lệ thuộc nhiều vào nội dung của vấn đề.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.