Chết Đi Về Đâu

ĐỊNH HƯỚNG NGHIỆP TÍCH CỰC

Thế Tôn từng nói, đứa con trong bụng làm thay đổi cả tính tình người mẹ. Bà mẹ đó trước đây có thể không thèm món này, món nọ nhưng bây giờ lại thèm. Đây là chuyện bình thường vì điều này cần cho cấu trúc phát triển của thai nhi. Tuy nhiên, có những cái thèm không đáng thèm là do ảnh hưởng bởi cá tính của đứa con trong bụng như trường hợp của hoàng hậu Ma-da là một điển hình. Bà thèm làm nhân từ, đạo đức, và từ thiện xã hội gấp nhiều lần so với trước đây. Bởi hạt giống của ngài Tất-đạt- đa là hạt giống từ bi, tuệ giác và tình thương. Chính yếu tính này đã tác động làm cho bào thai được thay đổi ở mức độ tích cực, lún mạnh hơn về những đức tính tốt mà bà đang có sẵn.

Khoa học ngày nay chỉ đề cập một chiều trong suốt thời gian thai nghén, người mẹ phải kiêng cữ trong việc ăn uống tiêu thụ để không làm ảnh hưởng đến thể trí và thể chất của đứa con. Bởi vì thực phẩm độc tố có thể làm biến dạng tri thức, cấu trúc não bộ hoặc cơ thể vật lý của đứa con. Tuy nhiên, theo đức Phật, những điều kể trên vẫn chưa đủ, cần làm sao để thay đổi về mặt tính tình thật nhiều. Một người bình thường có thể nóng, giận, ích kỷ, hẹp hòi nhưng suốt thời kỳ thai nghén không nên để những tâm lý tiêu cực đó xuất hiện. Người mẹ ấy phải luôn có niềm vui, hoan hỷ, hỷ xả, bao dung, tha thứ, dấn thân, tích cực thì đứa con sinh ra cũng sẽ có những chất liệu đó; nó tác động trực tiếp thông qua cái nhao của người mẹ.

Yếu tính của nghiệp được di chuyển và chuyển thể trong suốt quá trình 9 tháng 10 ngày bị tác động bởi năng lực tích cực mới của người mẹ có ý thức. Điều này tạo ra cá tính mới hay sự chuyển hướng tích cực hơn. Chính vì vậy, trong suốt thời gian thai nghén, người Phật tử có thể hỗ trợ và sanh ra đứa con được tạm gọi là theo ý muốn về phương diện chức nghiệp, hướng nghiệp cho nó. Về phương diện cá tính, cũng có thể thực hiện được việc này.

Trong tập tục thôi nôi – một phong tục dân gian rất gần với đạo Phật, cha mẹ trong gia đình cần bày ra nhiều vật dụng khác nhau, mỗi vật dụng tượng trưng cho một ngành nghề để con em có thể chọn lựa. Ngày nay, nhiều nơi đã đi sai với tập tục này, biến nó thành một dịp hội hè để người thân ngồi lại với nhau ăn mừng, nhậu nhẹt, mà lẽ ra ý nghĩa của nó là để chăm sóc, định hướng nghề nghiệp tương lai cho đứa con. Chẳng phải vô cớ mà có trẻ thì chọn con dao, cây viết, xe hơi v.v… mỗi đồ vật đều liên hệ đến cá tính của đứa bé theo dòng chảy của nghiệp, và nó được lặp đi lặp lại suốt quãng thời gian có mặt trong cuộc đời. Cái gì từng gắn bó nhiều thì chắc chắn chúng sẽ chọn cái đó như là một khuynh hướng. Khi phát hiện ra điều này, các bậc cha mẹ cần chăm sóc, vỗ về, huấn luyện thật kỹ thì đứa con mới thành tựu điều tích cực trong cuộc đời.

Cần xác định rõ sau khi qua đời, con người sẽ đi theo hướng của nghiệp. Nghiệp được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành cái nghề. Chẳng hạn có người thích làm nghề nhà giáo vì nhận thấy nó mang lại hạnh phúc cho họ. Nghiệp làm cho con người có cảm giác nó là một phần sự sống của mình, nếu tách rời nó thì hạnh phúc và sự sống như thể bị mất đi, nên người ta không muốn mất nó, đó là nghề nghiệp tốt.

Đối với nghề tiêu cực cũng tạo ra cơn nghiện bám víu, ghì chặt, làm con người không vùng vẫy nổi, nhìn thấy năng lực của nghiệp đang siết chặt, hòa quyện vào bản chất cuộc sống, ta cần hết sức thận trọng trong sự lựa chọn cho mình một hướng đi. Bởi vì nghiệp tạo ra hạnh phúc và khổ đau, tất cả đều nằm ở sự định hướng của một con đường.

NGHIỆP CẢM TƯƠNG ỨNG TRONG TÁI SINH

Tại sao có tình trạng chết do sẩy thai, chết do phá thai hoặc chết do sinh non? Đạo Phật lý giải rằng bởi vì chưa có sự tương ứng nghiệp giữa sự tái sinh của hương linh vừa ra đi với cha mẹ tương  lai  của  người  đó.  Cho  nên  đi  về  đâu  là  lệ  thuộc  vào  sự tương ứng của nghiệp.

Tại sao người Việt Nam da vàng, mũi tẹt, thấp bé, nhưng lại có tinh thần bất khuất, phấn đấu, nỗ lực, chăm chỉ, tháo vác? Bởi vì những người đó đã tạo ra cùng một cộng nghiệp, chính cộng nghiệp này làm cho những người cùng mẫu số chung của hành vi được sanh ra trong một môi trường để cùng hưởng và sống trong hoàn cảnh đó mà không có sự lựa chọn nào khác. Cho nên sự huấn luyện hành vi sẽ quyết định cho tiến trình tái sanh.

Tình trạng chết non diễn ra do bởi cộng hưởng về mẫu số chung của nghiệp giữa hương linh qua đời và tái sinh trong hình thái mới với cha mẹ của chúng bị khác nhau. Vì vậy, chúng đành phải rút lui để tìm cho mình một chỗ thích hợp mới theo quy luật tự nhiên của nhân quả. Trong kinh Trung Bộ, đức Phật từng nói có ba yếu tố để hình thành nên một mầm sống:

– Tinh cha trứng mẹ.

–  Cha  và  mẹ  phải  có  quan  hệ  tính  dục  trong  thời  kỳ  có  thể thụ thai.

– Sự có mặt của nghiệp cảm tương ứng qua hình thái của năng lực nghiệp tái sinh hay thức tái sinh thì mầm sống đó mới bắt đầu được thừa nhận là có sự sống thực sự. Đây là yếu tố hoàn toàn vượt lên trên khoa học.

Vậy làm thế nào để hương linh tìm được nghiệp cảm tương ứng để lại có cơ hội tái sinh ngay khi vừa mới mất? Điều này thật khó vô cùng, bởi vì gia đình sau này mà hương linh sẽ làm con và đôi vợ chồng làm cha mẹ chưa chắc đã có quan hệ giới tính trong lúc hương linh này vừa mới ra đi do tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử v.v…Ngoài ra,  do bởi các hương linh này không có sự tiếc nuối về cảm xúc, không bám víu nên sự ra đi của họ chỉ diễn ra trong tích tắc. Vì vậy, theo qui luật tự nhiên, họ đành phải bám vào bất kỳ cái gì đang có điều kiện để cho mầm sống được diễn ra. Để rồi sau đó nghiệp không tương ứng, phải dẫn đến tình trạng chết non, sẩy thai hay phá thai của người mẹ.

Cách đây hai tháng, tôi có nhận được một cú điện thoại từ Nam Úc gọi về từ một cặp vợ chồng trẻ khóc sướt mướt với tâm trạng khổ đau, tự hành hạ và trách móc bản thân mình. Đôi vợ chồng này vừa mới sinh được một đứa con khoảng hai tháng tuổi. Vì muốn đi làm sớm nên họ gởi con cho người vú nuôi chăm nom. Một hôm, bất hạnh đã xảy ra khi đứa bé bị té ngã nằm sấp trên mặt đất. Do vì còn quá nhỏ, chưa đủ sức để cựa quậy nên mũi của nó đã tiếp xúc với mặt đất, và chỉ vài phút sau thì đứa bé đã chết. Nỗi khổ đau bị mất con làm cho đôi vợ chồng này cảm thấy ray rứt, tự dằn vặt mình, nghĩ rằng do vì muốn đi làm sớm nên chính mình là tác giả gây cái chết cho đứa con.

Tôi đã an ủi, phân tích cho đôi vợ chồng này thấy rằng sống và chết không do sự lựa chọn của chúng ta mà là sự lựa chọn của nghiệp. Trong tình huống này, nghiệp dẫn dắt đi, có thể do sự bất cẩn của người vú nuôi là chất xúc tác để cho đứa bé đó không tìm được nghiệp cảm tương ứng trong gia đình đó nữa, nên nó phải thoát ra để đi tìm một mầm sống mới ở nơi khác. Cần phải tâm niệm như thế để vơi bớt phần nào sự hành hạ bản thân. Ta có buồn khổ hay trách móc cũng không làm người chết có thể sống lại. Cần biến nỗi đau thành hạnh phúc, tức là làm thế nào giúp cho hương linh đó được siêu thoát bằng khóa lễ cầu siêu và tạo công đức, phước báu. Tôi đã hướng dẫn đôi vợ chồng này làm từ thiện tại trung tâm Thanh Thiếu Niên 3 – Quận Gò Vấp, nơi đây có hơn 400 em với độ tuổi từ 4 đến 17 hầu hết đều vô gia cư, được tập trung lại để cải tạo, giáo huấn. Sự hồi hướng công đức giúp cho các em được nghe Phật pháp, chuyển hóa phần nào những thói hư tật xấu chắc chắn sẽ mang lại lợi lạc nhiều hơn.

Điều quan trọng hơn hết cần mang lợi lạc đến cho người còn sống, và thông qua phước lực đó sẽ được chia sẻ một phần cho người quá cố. Bởi theo kinh Địa Tạng, người chết chỉ ảnh hưởng một phần, vì qui luật nhân quả của người quá cố là cơ sở tình thương để người còn sống làm những việc phước lành. Chính vì thế, quan niệm của người châu Á chăm sóc cho người quá cố chính là cách thức tạo hạnh phúc cho những người còn sống. Cộng hưởng giao thoa của nghiệp khá rõ ràng, nếu tạm phân chia công đức đó ra làm bảy phần – con số mang ý nghĩa trọn vẹn và đầy đủ của nền văn hóa biểu tượng Ấn Độ thì người quá cố hưởng được một phần, và người làm hưởng được sáu phần.

Nghiệp cảm tương thích sẽ tạo ra sự đi về của tái sanh. Đi về đâu? Ở đây cần có sự tương ứng, cùng một họ hàng nghiệp tạo ra phong cách con người trong gia đình đó. Theo cách thức này, đừng nên có suy nghĩ “con là nợ, vợ là oan gia” hoặc ngược lại mà đây là nhân duyên với nhau, có cùng họ hàng nghiệp với nhau nên phải sinh ra trong cùng một gia đình với nhau. Sự lận đận, xảy ra nghịch cảnh với nhau là thuộc về bản chất của nghiệp. Đừng nên nghĩ đó là con nợ, bởi như thế sẽ khó ứng xử hạnh phúc với những thành viên còn lại trong gia đình. Nên quan niệm đây là cơ hội đồng hành, người thuận lợi trong đồng hành, người nghịch cảnh trong đồng hành, tùy thuộc vào nghiệp của mỗi người mà thôi. Vấn đề là tìm giải pháp để giải quyết nó, chứ không trách cứ, đổ lỗi.

Từ xa xưa, trong nền văn hóa Việt Nam, các Hòa thượng từng dạy rằng, trong một gia đình có một cặp song sinh, nếu là hai người nam hoặc hai người nữ, ai sinh ra trước là anh (chị), ra sau là em. Ngược lại, trong tình thế là một nam và một nữ thì không nên tính theo cách thức trước và sau, mà phải tạo điều kiện cho người nữ được làm chị. Đây là hướng giải quyết vấn đề rất hay và sự ảnh hưởng của nó vẫn còn lan rộng trong văn hóa dân gian Việt Nam hiện nay.

Các Hòa thượng đã lý giải cho điều này rất có cơ sở về mặt Phật pháp. Bởi lẽ khi có một cặp tình nhân nào đó đã chết, hoặc do tự tử, hoặc chết khi đang trên đường đi tìm hạnh phúc như trường hợp công nương Diana và người tình chết vì tai nạn giao thông. Chắc chắn họ sẽ có cùng một cảnh giới tái sanh, cùng một thời điểm tái sanh, và nếu như họ hàng nghiệp của họ giống nhau thì họ sẽ tái sinh cùng một chỗ. Ở đời quá khứ, trong tình yêu họ cùng đi với nhau, nhưng khi có mặt ở đời sống mới thì không thể gọi họ là vợ chồng, là tình nhân mà phải là anh em hay chị em. Để tránh tình yêu loạn lạc trong một họ tộc, các Hòa thượng dạy và khuyến tấn chúng ta nên để cho người nữ làm người chị và người nam là người em dù người nam đó có sinh ra trước đi chăng nữa. Đó là một nghệ thuật, bằng không sự loạn luân có thể diễn ra, vì yếu tố của tình yêu mãnh liệt đến nỗi khiến con người muốn song hành và có mặt với nhau trong cuộc đời.

Nếu đặt tình huống đi theo nghiệp, cùng họ hàng nghiệp, cùng mẫu số chung của nghiệp nên mới có tình trạng sinh đôi, sinh 3, sinh 4 hoặc hy hữu hơn có trường hợp sinh 16 mà báo chí từng đưa tin. Như vậy, tình huống đó như thế nào, liệu mẫu số chung của nghiệp đó có làm cho những người này có các cách giống nhau hay không? Câu trả lời hoàn toàn là không về mặt tổng thể, vì theo đạo Phật, phải có một nghiệp cảm tương ứng giữa cha mẹ và con cái thì cấu trúc này mới tạo ra mầm sống mới trong một gia đình. Vì vậy, khi có mẫu số chung na ná giống nhau, trong một thời điểm nào đó, ở nhiều nơi và nhiều người vừa mới qua đời, do vì nghiệp cảm tương ứng giống nhau nên mới sanh vào cùng một gia đình để trở thành sinh đôi, sinh 3, hay sinh 16 v.v…nhưng cá tính của những người này hoàn toàn khác nhau. Bởi vì trong mẫu số chung có mẫu số riêng, và cái riêng đó tạo ra bản chất của đời sống.

Hãy thử liên tưởng có hai nhân vật, một người có khả năng tạo tiếng cười cho cho cả thế giới, đó là vua hề Charlot, và một người tạo nước mắt và khổ đau cho cả thế giới, đó là trùm phát xít Hitler. Hai nhân vật này sinh cùng một ngày, một giờ, chỉ khác nhau về phút, nhưng vì môi trường, điều kiện, hoàn cảnh, giáo dục đã làm cho quán tính của nghiệp được thay đổi. Đạo Phật lý giải vấn đề này để phủ định cái gọi là định nghiệp, định mệnh trong tiến trình tái sanh. Chẳng có gì giữ mãi, tồn tại mãi mà không thay đổi. Vì vậy, đừng nên bi quan, tiêu cực hay sợ hãi trước một điều xấu xa trong quá khứ, chỉ cần ta có ý chí, nỗ lực thay đổi thì chắc chắn sẽ được làm mới và cách tân.

Khi quan niệm không có định mệnh và định nghiệp, con người sẵn sàng nỗ lực tất cả bằng tự thân để vượt lên, hướng tới, và kết quả ít nhất sẽ nhận được một phần tương thích với những gì mà mình mơ tưởng. Trái lại, chấp nhận định mệnh, sự an bày thì con đường diễn ra trước mắt chỉ là sự lệ thuộc, sẽ kéo theo những gai góc, khổ đau.

Chết đi về đâu? Theo tinh thần Phật dạy, chết không phải là sự kết thúc mà chỉ là sự bắt đầu của một hành trình mới. Con đường hành trình được dẫn đạo bằng hành vi con người trong quá khứ. Tuy nhiên, năng lực quán tính của nghiệp trong quá khứ không thể quyết định cả vận mệnh con người trong hiện tại. Quán tính chỉ là khởi điểm, con đường đi mới tạo ra điều kiện, môi trường, hoàn cảnh, giáo dục, phong tục tập quán được thay đổi trong hằng ngày, hằng giờ. Cộng nghiệp mới được thành lập, biệt nghiệp cũ được xóa đi, biệt nghiệp mới được thành lập tạo ra cộng nghiệp mới. Tiến trình về nghiệp phức tạp như vậy đó, cho nên không bao giờ có cái gọi là định mệnh.

Đó là quan niệm nhân quả của đạo Phật. Nếu cứ nhận định rằng định mệnh của tôi là như vậy thì vĩnh viễn không bao giờ có nỗ lực, không thể có hướng đi mới và con đường mới như ta hằng mong đợi. Mọi hành vi của nghiệp đều có thể thay đổi theo dụng ý và tự do duy ý chí của con người. Do đó, mỗi chúng ta cần phải chọn lựa cho mình lý tưởng tốt, con đường tốt và hướng đi tích cực.

Thích Nhật Từ (Chùa Pháp Quang, Queensland, Úc Châu, ngày 28- 05-2006) Ghi chép: Huỳnh Thị Nhã Phương

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.