Tiếng Việt
Nhẽ trời đất thường khi gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên[1].
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành[2] lung lay bóng nguyệt, 5
Khói Cam Tuyền[3] mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu chóng tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung[4] trao quan vũ từ đây. 10
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây[5] sá nào.
Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa[6].
Bóng cờ tiếng trống xa xa, 15
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền[7] mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời[8]. 20
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa[9],
Gieo Thái Sơn bằng độ hồng mao[10].
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Tiếng roi cầu Vị[11], độn vào gió thu.
Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc, 25
Đường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ không quên. 30
Nhủ rồi tay lại trao liền.
Bước đi một bước lại vin áo chàng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa muôn cõi nghìn non[12];
Đặt chén[13] tiễn múa Long Tuyền, 35
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử[14] ;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba[15].
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. 40
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương[16] chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã tới ngoài doanh Liễu[17] 45
Ngựa sau còn ở nẻo Tràng Dương[18]
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch ruổi xa chừng lăng lắc.
Hàng cờ bay bóng ngất mờ mờ. 50
Dứt tay theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì chạy cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn, 55
Những màu mây biếc, cũng ngần núi xanh
Chốn Hàm Kinh[19] chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương[20] thiếp hãi trông sang.
Khói Dương Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Dương Tương mấy trùng. 60
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chàng từ chạy vào nơi gió bụi, 65
Ðêm trăng này nghỉ mát phương đâu?
Xưa nay chiến địa dường bao!
Núi không muôn dặm xiết lao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa giận chân bon. 70
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại[21],
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua[22].
Hình khe thế núi gần xa, 75
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như gội,
Nước lòng khe, nẻo lõi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt rầu chẳng khuây. 80
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Dạng chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải[23] thì miền Quan san[24].
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ 85
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng[25],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Từ chạy sang đông nam ngất nẻo
Biết rằng chàng tiến thảo[26] nơi đâu? 90
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ[27] mộ chỉ trăng treo, 95
Bến Phì[28] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt[29], nào ai gọi hồn? 100
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già cõi chiến trường,
Chàng Siêu[30] mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải những bề nắng nỏ. 105
Ba thước gươm, một bộ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Mũi treo[31] đầu ngựa, giáo dan[32] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi, 110
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng đâu[33]?
Những mong cá nước cùng nhau, 115
Nào ngờ mây nước bóng đâu cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn[34]?
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thì hôm giãi rầu. 120
Phác phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan san để cách hàn huyên[35] bao đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu. 125
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi[36] lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ[37] mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông, 130
Nay đào đã quyến gió đông
Tuyết mai trắng bãi phù dung đỏ bờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây[38] sầm ấy,
Suốt ngày trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm, 135
Đứng trông nghe dậy tiếng cầm[39] lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương[40] cầu nọ.
Đêm lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi áo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào[41] mênh mông. 140
Tin gửi đi người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường đến, người không thấy đến, 145
Bức rèm thưa lần chuyển bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy[42].
Tiền sen[43] này đã nẩy là ba. 150
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa[44] dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân[45] khuê phụ[46] nhớ thương.
Tác già phơ phất mái sương, 155
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì[47].
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam,
Luyện con đèn sách, thiếp làm phụ thân 160
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẽ biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào còn xa!
Kể năm đã ba tư cách diễn 165
Mối lòng thêm nghìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giở niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán[48] của ngày xuất giá
Gương lầu Tần[49], dấu đã soi chung. 170
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Xin chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mỗi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu[50] thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi đến nơi, 175
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Đến xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong[51].
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. 180
Gió tây nổi, không đường hồng tiện[52],
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết[53] xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm[54] phong thôi lại mở. 185
Gieo quẻ tiền[55] tin dữ còn ngờ.
Trời hôm tựa cửa ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ gió mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thờ ơ lẫn thẩn hư không. 190
Trâm cài, xiêm giắt[56] thẹn thùng,
Trải làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, đem gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ, gác[57] đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin, 195
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn muộn nói chẳng nên lời,
Hoa đèn[58] kia với bóng người há thương, 200
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc bằng miền bể xa.
Hương gượng đốt, lòng đà mê mải, 205
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan[59] ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên, 210
Non Yên[60] dù chẳng đến miền.
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh vui người thiết tha lòng, 215
Hình cây sương giọt, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Mưa dường cưa cưa héo cành ngô.
Đòn tuyết phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa tiếng khơi. 220
Vài tiếng dế, nguyệt lay trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Màn trong lan sổ gió xuyên,
Trăng lơi hoa bóng soi lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 225
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi, 230
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng. 235
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người phiền não,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Băng.
Khác gì ả Chức[61] chị Hằng[62],
Bến Ngân[63] sùi sụt cung trăng chốc mòng. 240
Sầu ôm nặng, ai chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, ai thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn dồn hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng. 245
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch[64] bấy nay,
Dặm xa mong mỏi, hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều[65] khua như rứt buồng gan. 250
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly[66] mới biết tân toan[67] dường này.
Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Mùi cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi, 255
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Vui[68] còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường đến Giang tân tìm người 260
Tìm chàng nơi Dương Đài[69] lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương Phố[70] bến xưa:
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng 265
Thì gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! 270
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam, bãi chia mặt nước,
Cỏ biếc sum, dâu lướt mầu xanh.
Xóm làng gần nửa[71] lênh chênh, 275
Chim còn bãi cát những tình chiều hôm.
Trông đường bắc, từng chòm quán khách,
Mây biếc cây núi ngất trời xanh;
Nửa lúa thêm nửa hoang thành,
Mưa phun mặt nước địch quanh ốc lầu. 280
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, 285
Nhạn cánh không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc cỏ lau,
Cách thuyền nào thấy người đâu đi về.
Trông tư bề chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoát đòi phen; 290
Lớp mây kĩ mắt ngại nhìn,
Đâu cõi chinh chiến đâu miền Ngọc quan[72]?
Gậy rút đất[73] dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu[74] nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên, 295
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong[75].
Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? 300
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp dường hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, 305
Hoa để vàng cũng tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nở trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. 310
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương[76] thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền[77] buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng, 315
Trông sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay mấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi. 320
Một năm một lạt mùi son phấn,
Trượng phu còn lẩn thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương[78]?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, 325
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì[79].
Sợ nhớ khi cành đào đóa mận[80],
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau; 330
Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu.
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thiết một thân phòng không luống giữ,
Thời tiết lành nhầm nhỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, 335
Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh
Xuân xanh để hận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều mối tơi bời,
Liễu bồ hầu dễ ép nài chiều xuân. 340
Kìa Văn Quân[81] mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ ả Phan lang[82],
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, 345
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc mà ra nạ giòng
Gác hương nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất hơi hương. 350
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Lại chẳng thấy chim yến trên rường, 355
Bạc đầu không nỡ đôi đường giã nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cùng sánh, đôi cây cùng liền. 360
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây?
Thiếp xin muôn kiếp duyên này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy, 365
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên; 370
Chàng nương vầng nguyệt thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc[83] thắm son ngăn ngắt,
Sức tý dân[84] tiêu sắt tri tri.
Máu Đan Vu[85] đầu[86] Nguyệt Thị[87], 375
Ấy thì buổi uống, ấy thì buổi ăn.
Mũi đòng vác[88] đòi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài. 380
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Đỉnh non[60] khắc đá đề danh,
Triều thiên[89] vào trước cung đình[90] dâng công,
Nước duềnh Hán nên đồng rửa sạch, 385
Khúc Nhạc Từ réo rắt tiếng khen.
Tài so Tần, Hoắc[91] vẹn tuyền,
Tên ghi gác Phượng[92] tượng truyền đài Lân[93],
Đền huân tướng[94] đai cân vày vẽ.
Chữ đồng hưu[95] bia để nghìn đông. 390
Ơn trên tử ấm, thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ[96],
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương[97].
Khi về đeo quả ấn vàng, 395
Trên cung cửi, dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng cất bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. 400
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần đòi chén, 405
Sẽ ca dần giản giản đòi liên
Liên ngâm đối ẩm từng phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui chữ thanh ninh. 410
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.
Đặng Trần Côn, người dịch: Đoàn Thị Điểm