Tử Nạn Và Tử Tù

TỬ NẠN – THÁI ĐỘ VÀ CÁC PHẢN ỨNG TÂM LÝ 

Thứ nhất, phản ứng từ phía xã hội thì lẫn lộn, khen ngợi và nhận định một cách máy móc cũng có. Người Phật tử đứng trước cảnh sinh ly tử biệt, phản ứng đầu tiên là thể hiện lòng từ bi bằng một phút mặc niệm để cầu nguyện cho các hương hồn ra đi trong trạng thái thiếu sự chuẩn bị được siêu thoát. Đối với những tình huống chết một cách đột ngột, nên làm lễ cầu siêu tập thể, chỉ cần mỗi người có tấm lòng là có thể thiết lập trai đàn cầu siêu giúp cho các nạn nhân. Niệm một câu thần chú Vãng Sanh, hoặc trì danh hiệu đức Phật A-di-đà bằng cả tấm lòng, truyền hết năng lượng từ bi và phước báu của ta mong các hương linh đừng tiếc nuối về gia đình, gia tài, sự nghiệp để về cảnh giới an lành của chư Phật. Nghĩa cử cao thượng này dù rất đơn giản nhưng mang ý nghĩa rất lớn, là hành trang công đức giúp cho người ra đi.

Thứ hai, phản ứng từ phía gia đình các nạn nhân cũng là một phản ứng lẫn lộn. Nhiều gia đình tự giằng xé lương tâm bằng những từ “giá mà” hoặc “phải chi”. Chẳng hạn: “phải chi mấy ngày trước tôi tìm cách ngăn cản con thì hôm nay nó đâu bị chết”, “muốn làm từ thiện thì có thể gởi tiền đến các cơ quan chuyển dùm, đâu cần phải đích thân đi…”, “phải chi tôi yêu cầu nó đi vào ban ngày thì nó đâu có chết” v.v.. Đây là mệnh đề đặt giả thuyết về tình huống xảy ra, và ước nguyện của gia đình thân nhân đi ngược hoàn toàn với những tình huống đó. Điều này càng làm cho nỗi đau thêm dâng trào, thân nhân của người tử nạn không muốn thừa nhận cái chết đã diễn ra với người thân của họ. Sự tiếc nuối kéo theo những giọt nước mắt, nỗi đau, và

trạng thái căng thẳng. Trong trường hợp những người thân từng có quan hệ không tốt với người quá cố sẽ cảm thấy ân hận, tự trách móc bản thân:“phải chi mấy ngày vừa qua mình không xích mích với nhau, có lẽ người đó sẽ không đi từ thiện thì đâu xảy ra hậu quả như vậy.” Các phản ứng trên được kinh điển đạo Phật xác định, đó là tình thương yêu thiếu tính cách xây dựng và dẫn đạo bởi quy luật sống và chết, khiến khổ đau của người quá cố gia tăng. Người chết khi cảm nhận tình thương yêu của người còn lại không hướng họ về con đường siêu sanh thoát hoá thì cảm xúc yêu thương đó sẽ kéo dài tình trạng thân trung ấm, tức là cảnh giới trung gian giữa cái chết và một đời sống mới trong tiến trình tái sanh.

Một phản ứng khác lại cảm thấy rất hãnh diện, tự hào vì người thân hi sinh trong lúc thực hiện nghĩa cử cao thượng cho xã hội, cộng đồng. Nỗi đau vẫn có, nhưng họ biết cách chuyển hoá nỗi đau bằng tâm lý tích cực. Khuynh hướng tâm lý tích cực hoàn toàn phù hợp với đạo lý nhà Phật về bản chất và giá trị đời sống thông qua cách thức sống như thế nào. Riêng cái chết có thể liên hệ đến nhiều yếu tố như quy luật nhân quả, rủi ro do bất cẩn, và nhiều tình huống khác. Vì vậy, đừng bận tâm về cách chết thương tâm hay chết thư thái, nhẹ nhàng để qui kết vào tình huống nghiệp nặng hay nhẹ. Trong nỗi khổ niềm đau của người được nhận, nếu thiên về cách giải thích tiêu cực về định nghiệp, định mệnh sẽ làm cho nỗi đau gia tăng gấp bội. Điều cần thiết nên chia sẻ là cái chết của người bị thảm nạn trên đường làm từ thiện là cái chết xứng đáng.

Trong suốt tám năm (từ 1994 đến 2002) tôi du học tại Ấn Độ, năm nào cũng theo dõi tin tức báo chí về những chuyến hành hương và làm từ thiện của người dân Ấn Độ. Mỗi năm, báo chí đều đưa tin những chuyến hành hương và từ thiện như thế thường gặp sự cố về tai nạn và chết dọc đường. Lúc ấy, có một mẩu tin đăng trên báo khiến tôi rất tâm đắc. Đó là gia đình

một nạn nhân gặp nạn trong chuyến hành hương đã viết bài chia sẻ. Phần đầu nói về nỗi buồn và nước mắt của cuộc chia ly, vĩnh biệt người thân, và phần tiếp theo nói về niềm hãnh diện tự hào với một câu rất ấn tượng:“chúng tôi rất vui mừng vì người thân của chúng tôi được rước về Phạm Thiên”. Phạm Thiên là Chúa Trời theo quan niệm Ấn Độ giáo.

Niềm tin tôn giáo giúp họ tâm niệm rằng, trong lúc thực hiện nghĩa cử cao đẹp mà qua đời thì người đó sẽ được tái sanh vào cảnh giới cõi trời, cho nên chẳng có gì phải đau buồn. Tuy nỗi đau buồn, mất mát chắc chắn phải có bởi tình người, nhất là tình thân khó mà ngăn được dòng cảm xúc, nhưng niềm vui mừng, hãnh diện trước việc làm của người quá cố thì cận tử nghiệp này sẽ quyết định tiến trình tái sanh cho người ra đi. Nếu trong quá khứ ta từng có người thân bị tử nạn khi công tác từ thiện xã hội, hoặc do tai nạn giao thông, thiên tai, lũ lụt v.v… thì nên quan niệm tương tự như thế. Không để cho nỗi buồn chi phối, mà hãy tìm cách phóng thích, chuyển hóa nó bằng khuynh hướng và suy nghĩ tích cực thì kẻ còn lẫn người mất đều cảm thấy an vui.

Thứ ba, phản ứng từ bản thân người làm từ thiện gặp tử nạn. Với tình huống 12 người gặp thảm nạn chết tại chỗ thì không ai đo lường được dòng cảm xúc và phản ứng tâm lý của họ như thế nào.

Đặt giả thuyết thứ nhất, những người này đang thiếp đi trong một giấc ngủ dài trên xe, và đến giữa khuya thì tai nạn xảy ra. Họ không hay biết hoặc ý thức về tai nạn xảy ra nhưng cái chết đã xuất hiện. Niềm hân hoan trong những ngày đi vận động các nhà hảo tâm đóng góp đã khiến họ giữ được trạng thái vui mừng, hạnh phúc cho đến lúc cái chết diễn ra. Tiến trình cận tử nghiệp trong an vui, hạnh phúc khi giúp đỡ người khác là hành trang quý báu, chắc chắn một trăm phần trăm rằng những người này khi tái sanh làm lại con người, trong tâm họ đã có sẵn cơ nghiệp, hạt giống làm từ thiện và hạnh phúc với việc từ thiện.

Mất mát đó có thể để lại nỗi đau cho người thân của họ, nhưng bản thân người ra đi lại không ân hận, nuối tiếc, vì họ đã làm được việc đáng tán thán và có giá trị cho đời sau.

Đặt giả thuyết thứ hai, trong tình huống cái chết xảy ra trong vài phút sau đó, tức là các nạn nhân có thể rơi vào trạng thái hôn mê, rồi tiếp theo cái chết đến từ từ, ít nhất là vài giây sau tai nạn. Trong tình huống này, bản thân nạn nhân – người không có lập trường dễ bị lay động và khuynh đảo niềm tin. Trạng thái nuối tiếc sự sống bắt đầu xuất hiện trong tâm,“phải chi mình không đi từ thiện thì đâu bị chết như vậy”. Chính tâm lý nuối tiếc này làm cho con đường tái sanh của các nạn nhân gặp nhiều trở ngại. Họ chưa sẵn sàng ra đi, và đến lúc tái sanh ở đời sau sẽ mang theo quán tính thói quen luôn dè dặt trước nghĩa cử cao thượng khi phải dấn thân làm việc thiện, mà không lý giải được tại sao. Có thể họ thích công việc từ thiện, nhưng khi được mời gọi thì họ luôn dè dặt, từ chối bằng cách này hay cách khác. Mong rằng các nạn nhân bị thảm nạn vừa qua không có cảm giác nuối tiếc vì nghĩa cử cao thượng đó.

Đề cập đến ba phản ứng tâm lý từ cộng đồng, người thân, và chính bản thân của nạn nhân để thấy rõ các góc độ tâm lý diễn ra ở mỗi người. Tình thương yêu và sự hiểu biết nhân quả sẽ giúp người Phật tử gần gũi với cuộc đời, dấn thân vào xã hội bằng mọi cách. Ai không có của thì đóng góp bằng tấm lòng, không trực tiếp thì gián tiếp bằng nhiều hình thức như vận động, khuyến tấn, tán thán để chất liệu của lòng từ bi được gieo rắc khắp nơi.

BẢN CHẤT NGHIỆP VÀ THỌ MẠNG

Trong bản chất của nghiệp có những tính chất chung và riêng. Sự khác nhau giữa tính chất chung và riêng liên hệ đến phước lực tuổi thọ và đời sống. Nó là sự kết nối của một quá trình liên hệ đến nhiều kiếp sống đời trước và hiện tại. Có nhiều loại hình nghiệp chung (cộng nghiệp) và nghiệp riêng (biệt nghiệp). Dưới đây, tôi chỉ phân tích đến nghiệp chung và nghiệp riêng liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống.

Bản chất của nghiệp liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống là thái độ và hành động tôn trọng mạng sống của người khác, các loài vật và thậm chí là môi trường sinh thái. Người phát tâm ăn chay trường thấy rõ các loài động vật cũng có tình thương yêu đời sống như con người. Chỉ có điều chúng không thể chia sẻ về quyền được sống và cần sự bảo hộ như con người. Người từng có quá trình gieo hạt giống tạo sự sống, chẳng hạn như nghề bảo vệ rừng để rừng khỏi bị cháy, đồng thời giúp cho muông thú và côn trùng sống tại đó không bị chết cháy; hoặc người làm công tác đắp bờ đê chống lũ, người tuyên truyền kêu gọi hòa bình, người khuyến tấn, hướng dẫn và giúp đỡ người khác ăn chay v.v… tất cả đều là những người đang thực hiện gieo hạt giống về mạng sống và tuổi thọ.

1. Nghiệp riêng (Biệt nghiệp)

Nghiệp riêng về phước lực tuổi thọ được tích chứa ở những người sống sót thông qua các tai nạn trong khi những người đồng nạn khác đều chết, cho thấy năng lực hạt giống về mạng sống ở người đó quá nhiều, dù cái chết bất đắc kỳ tử có diễn ra vẫn không thể cướp đi mạng sống của họ. Người không gieo trồng hạt giống bảo vệ mạng sống nhưng cũng không phá hoại mạng sống thì tuổi thọ và nghiệp lực tuổi thọ chỉ ở mức trung bình. Vì vậy, khi sự cố tai nạn xảy ra thì họ cũng như bao nhiêu người bị nạn khác, không thể níu kéo được sự sống. Dựa vào tính chất chung và riêng của nghiệp cho thấy không có định mệnh hoặc định nghiệp. Mạng sống con người do chính hành vi, suy nghĩ và cuộc đời của người đó tạo ra. Dĩ nhiên, nó chịu sự tác động và chi phối của con người xung quanh, người trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến cái chết và sự sống.

2. Nghiệp chung (Cộng nghiệp)

Cứ hằng ngày, hằng giờ, ta thường nghe đến những sự kiện chết tập thể rất thương tâm và đau lòng. Tất cả đều liên hệ đến nghiệp chung. Trong thời hiện đại, chúng ta có cơ hội tạo nghiệp chung khá nhiều mà không biết. Phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet là chất xúc tác để nghiệp chung được diễn ra. Trước đây, khi một sự kiện xảy ra ở địa điểm nào đó trên trái đất thì chỉ cư dân nơi đó mới biết rõ thông tin, nhưng ngày nay nhờ phương tiện vệ tinh, truyền hình, truyền thanh và báo chí, người ta nắm rõ chi tiết từng sự kiện một. Thái độ phản ứng trước những sự kiện có thể cùng vui hay buồn, cùng đồng tình hay phản đối, cùng tán thán hay chỉ trích. Tất cả những hành động“cùng” này được gọi là cộng nghiệp.

Ví dụ khi đưa tin trực tiếp về vụ tai nạn máy bay xảy ra tại NewYork vừa qua với sự sốt sắng của những người làm công tác cứu hộ rất quý và đáng trân trọng. Sự cố đã dẫn đến cái chết cho ngôi sao bóng chày tên Korirido và người hướng dẫn lái máy bay của anh. Chiếc máy bay này đã lao vào một tòa nhà cao 50 tầng ở New York, trong đó có hai tầng bị bốc cháy đó là tầng thứ 39 và 40. Chiếc máy bay này cất cánh từ sân bay Tentênovo, NewJesey bay được 15 phút trước khi đâm vào tòa nhà, chỉ có hai người chết nhưng bị thương đến 21 người trong đội cứu hộ. Xem truyền hình trực tiếp về vụ tai nạn, nhìn thấy nghĩa cử cao đẹp của những người dấn thân, nếu ai phát khởi tâm niệm tán thán về sự dũng cảm của đội cứu hộ thì xem như người đó đang gieo cộng nghiệp về bảo hộ tuổi thọ và sự sống. Dù không trực tiếp làm công việc này, nhưng việc tùy hỷ công đức, khởi tâm niệm chia buồn, tụng câu thần chú hay niệm danh hiệu Phật v.v… tất cả những hành động trên đều tạo ra cộng nghiệp có ý nghĩa trong đời sống. Muốn được như thế, đòi hỏi người xem truyền hình phải có lòng từ bi, có sự hướng dẫn và thực tập từ bi để gieo nghiệp tích cực.

Khi nghe tin tức về chiến tranh, chúng ta có khuynh hướng đứng  về  phe  liên  minh  và  đối  lập  với  phe  còn  lại.  Cuộc  chiến nào cũng có chánh nghĩa và phi nghĩa, nhưng cái chết vẫn thuộc về người dân vô tội. Đứng trước cái chết dù của bên nào, người Phật tử nên khởi lên tâm niệm từ bi, thương yêu và chia sẻ. Thực hiện được như thế là tạo cộng nghiệp tốt giúp ta có phước báu về mạng sống và tuổi thọ. Trong tình huống về sự cố tai nạn, nghiệp riêng về lòng từ bi chỉ bị thương tật chứ không bị hoạn nạn, bởi nó được tiếp tục nuôi lớn. Trái lại, nếu đứng về phía một liên minh, ta nguyền rủa kẻ xâm lăng, tạo tội lỗi giết chóc, không thể hiện được tình thương với các binh sĩ nằm xuống của phe ấy, lúc đó lòng từ bi bị thương tổn, ta hài lòng với sự giết chóc là xem như đã tạo một nghiệp chung về giảm tuổi thọ. Điều này rất tế nhị và khó nhận biết, bởi nó liên hệ đến chủ nghĩa yêu nước, chính sách quốc gia, thể chế chính trị v.v… Cái chết nào cũng mang lại khổ đau như nhau, nếu các chiến sĩ ấy không được cầu siêu thì sự tái sanh của họ sẽ lại tiếp tục mang khổ đau cho những người khác, vì nghiệp đó chưa được chuyển hóa hoàn toàn.

Nghiệp chung và nghiệp riêng tạo ra khuynh hướng về tuổi thọ và mạng sống của con người ở hiện tại và tương lai. Dù là cộng nghiệp hay biệt nghiệp, dù được cộng nghiệp hay biệt nghiệp giúp đỡ thì người Phật tử là thân nhân của người tử nạn nên quan niệm đây là nghĩa cử cao thượng. Không nên chán nản, thất vọng và lý giải sai lầm về cái chết liên hệ đến việc làm từ thiện. Các nhà làm từ thiện hãy mạnh dạn và dấn thân nhiều hơn để cuộc đời vơi bớt khổ đau. Đừng vì sự cố tai nạn làm thui chột lòng thương yêu của chúng ta.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.