Sau khi đã tìm hiểu Nghiệp một cách tổng quát, bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu các loại Nghiệp.
Trước tiên, Nghiệp có thể chia làm hai loại: Thiện Nghiệp và Bất Thiện Nghiệp. Một cách phân loại khác là phân loại theo chức năng. Tôi không thể giảng giải ở đây về chi tiết ở các loại Nghiệp khác nhau này. Nếu các bạn muốn biết nhiều chi tiết hơn về các loại Nghiệp này thì các bạn hãy đọc trong Abhidhammatha sangaha (Vi Diệu Pháp Lược Giải).
Nghiệp được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm gồm bốn Nghiệp.
Nhóm đầu tiên phân loại theo chức năng.
Nhóm thứ hai phân loại theo cách thức cho quả.
Nhóm thứ ba phân loại theo thời gian trả quả:
Nhóm thứ tư phân loại theo nơi chốn cho quả.
1. Khi phân loại theo chức năng chúng ta có bốn loại Nghiệp.
a. Đầu tiên là Nghiệp Tạo Tác, có nghĩa là Nghiệp tạo ra hậu quả.
b. Thứ hai là Nghiệp Hỗ Trợ. Nghiệp Hỗ Trợ chính nó không tạo ra quả, nhưng Nghiệp này hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác.
c. Thứ ba là Nghiệp Cản Trở. Nghiệp này, cũng vậy, chính nó không tạo ra quả, nhưng nó làm cản trở cho Nghiệp Tạo Tác.
d. Thứ tư là Nghiệp Hủy Diệt. Nghiệp Hủy Diệt, hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác.
Như vậy tùy theo chức năng của các Nghiệp mà Nghiệp được chia làm bốn.
Chẳng hạn Nghiệp tạo tác giúp cho một người sinh ra làm người. Như vậy kết quả của Nghiệp Tạo Tác là một người ra đời. Trong suốt cuộc sống của người này, y hưởng thụ sức khỏe tốt, giàu có, sống lâu, sắc đẹp v.v… Những điều mà người này có được là hậu quả của Nghiệp Hỗ Trợ. Nếu người này không mạnh khỏe, nếu người này nghèo, nếu người này không sống lâu thì đó là do Nghiệp Cản Trở phát sinh. Nếu người này chết vì tai nạn hay chết ngay tức khắc bởi một bệnh nào đó thì đó là Nghiệp Hủy Diệt đã phát sinh. Nghiệp Tạo Tác cho kết quả vào lúc hoài thai cũng như trong suốt đời sống. Và Nghiệp Hỗ Trợ đã hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác này. Nghiệp Cản Trở đã cản trở Nghiệp Tạo Tác và Nghiệp Hủy Diệt đã hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác này.
2. Nghiệp cũng được phân chia làm bốn loại theo cách thức mà nó cho quả. Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp, Tập Quán Nghiệp, Bảo Lưu Nghiệp.
a. Loại thứ nhất là Cực Trọng Nghiệp. Cực Trọng Nghiệp nghĩa là Nghiệp có năng lực mạnh mẽ, cho quả vượt trội hơn các Nghiệp khác. Nếu Cực Trọng Nghiệp là Nghiệp thiện thì đó là các tầng thiền, nếu bất Thiện Nghiệp thì đó là năm trọng tội: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, làm Phật bị thương và chia rẽ Tăng. Chấp thủ tà kiến cũng bao gồm trong đó. Chấp thủ tà kiến có nghĩa là cho rằng không có nhân, không có quả v.v…
b. Loại Nghiệp thứ hai là Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là Nghiệp mà một người tạo ra ngay trước khi chết. Mặc dầu người này có thể thường xuyên làm các Nghiệp thiện hay Nghiệp ác trong đời sống, nhưng Nghiệp thiện hay ác họ tạo ra ngay trước khi chết có năng lực mạnh mẽ hay ưu tiên để trả quả. Nghĩa là Cận Tử Nghiệp hay Nghiệp làm ngay trước khi chết có năng lực trả quả ưu tiên hơn “Tập Quán Nghiệp” và “Bảo Lưu Nghiệp”.
c. Tập Quán Nghiệp: là Nghiệp chúng ta thường xuyên làm hằng ngày theo thói quen hay tập quán. Một người thường tạo cả hai loại Nghiệp ác hay Nghiệp thiện hằng ngày tạo thành thói quen hay tập quán.
d. Bảo Lưu Nghiệp: Là Nghiệp không nằm trong ba loại Nghiệp trên. Nếu không có Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp hoặc Tập Quán Nghiệp thì Nghiệp Bảo Lưu có cơ hội trả quả.
3. Nghiệp phân biệt theo thời gian trả quả:
Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Nghiệp trả quả tức khắc, Nghiệp trả trong kiếp tới, Nghiệp trả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, và Nghiệp vô hiệu
a. Nghiệp trả tức khắc còn gọi là Hiện Nghiệp: là Nghiệp trả quả ngay trong kiếp sống này.
b. Nghiệp trả quả tiếp theo: là Nghiệp trả quả trong kiếp tới sau khi ta lìa bỏ kiếp sống hiện tại.
c. Nghiệp vô tận: là Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi.
d. Nghiệp vô hiệu: thật ra không phải là một loại Nghiệp riêng biệt. Nếu Nghiệp tức khắc không thể cho quả trong kiếp sống này thì trở thành vô hiệu. Nếu Nghiệp cho quả trong kiếp sau không đủ điều kiện thuận lợi để trả quả thì trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận thì không thể vô hiệu được; Nghiệp này tồn tại cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Chỉ tới lúc chấm dứt vòng luân hồi Nghiệp này mới chấm dứt. Khi Nghiệp thứ nhất, thứ hai, và thứ ba này không thể cho quả trong thời gian trả quả thì chúng trở thành vô hiệu.
Trong bốn loại Nghiệp trên thì Nghiệp vô tận tức Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi là Nghiệp quan trọng nhất đối với chúng ta. Khi Nghiệp trả quả tức khắc và Nghiệp trả qua trong kiếp tới không đủ điều kiện thì chúng trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận giúp chúng sinh ở trong các cảnh khổ có cơ hội tái sinh làm người và làm trời sẽ theo ta cho đến lúc chấm dứt vòng luân hồi. Tất cả chúng sinh có kho chứa Nghiệp vô tận này, khi có hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện chúng ta sẽ nhận quả của các Nghiệp này.
4. Nghiệp phân biệt theo nơi chốn trả quả.
Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây:
Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp, Dục Giới Thiện Nghiệp, Sắc Giới Thiện Nghiệp, Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp.
a. Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp: là những Nghiệp cho quả trong bốn ác đạo, và cũng cho quả trong dục giới và sắc giới.
b. Dục Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp thiện cho quả ở dục giới; và cũng cho quả ở sắc giới và vô sắc giới.
c. Sắc Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới.
d. Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới.
Muốn hiểu rõ Nghiệp ở các cõi bạn phải hiểu ba mươi mốt cõi, và phải hiểu mỗi cõi cho quả như thế nào, bạn phải tìm kiếm học hỏi chi tiết về các quả của các Nghiệp này trong sách Vi Diệu Pháp. Tôi chỉ cho các bạn biết một số căn bản về các loại Nghiệp, đồng thời kích thích óc tò mò, mong muốn tìm hiểu của các bạn để các bạn thích thú trong việc tìm hiểu, học hỏi nhiều hơn.
Nếu các bạn muốn tìm hiểu nhiều hơn các bạn nên đọc cuốn A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Vi Diệu Pháp Tập Yếu) do Tỳ khưu Bodhi hiệu đính.
Bây giờ chúng ta hãy trở về với việc phân loại các loại Nghiệp một cách thực tiễn hơn. Khi chúng ta hiểu thế nào bất Thiện Nghiệp, thế nào là Thiện Nghiệp thì chúng ta sẽ tránh làm các việc bất thiện, và chúng ta sẽ thực hành các Thiện Nghiệp.
Bất Thiện Nghiệp chia làm mười loại:
Ba Nghiệp bất thiện thuộc về thân, bốn Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu, và ba Nghiệp bất thiện thuộc về ý.
Ba thân Nghiệp bất thiện gồm: Sát sinh, trộm cắp, và tà hạnh.
Sát sinh là sát hại hay chấm dứt mạng sống chúng sinh. Sát hại chúng sinh bao gồm giết người, giết súc vật, và ngay cả những côn trùng bé nhỏ. Những gì gọi là chúng sinh đều không được giết hại. Người giết hại một chúng sinh nào là người ấy tạo Nghiệp ác.
Trộm cắp là lấy của ai vật gì mà không được chủ nhân của vật đó cho mình.
Tà hạnh là thông dâm với kẻ khác không phải là vợ hay chồng mình.
Ngoài hành vi tà dâm, tà hạnh còn có nghĩa là làm bất cứ hành vi tà vạy nào.
Bốn khẩu Nghiệp bất thiện gồm: Nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời nói dữ, nói lời vô ích.
a. Nói dối: là nói điều không thật. Nói dối chỉ thật sự trở thành Nghiệp bất thiện khi nói dối với chủ tâm làm hại và làm mất sự an toàn của kẻ khác.
b. Nói lời đâm thọc: là nói những lời nói nhằm mục đích gây ra sự chia rẽ người khác.
c. Nói lời nói dữ: là mắng nhiếc chửi rủa, nói những lời cộc cằn thô lỗ.
d. Nói lời vô ích: là nói những lời vô bổ, làm mất thời giờ mà không đem đến lợi ích tinh thần.
Ba ý Nghiệp bất thiện gồm:
a. Tham lam: Mong muốn chiếm đoạt của cải người khác. Đó là khi thấy vật gì thuộc quyền sở hữu của kẻ khác mà khởi tâm ham muốn lấy làm của mình như vậy mới gọi là tham lam. Tham lam không phải chỉ là thích thú, dính mắc vào vật gì của kẻ khác mà là có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình.
b. Sân hận: là giận dữ, chán ghét, mong muốn kẻ khác bị hại, bị thương tích, bị chết.
c. Tà kiến: cho rằng không có Nghiệp, không có quả của Nghiệp v.v…
Ba hành vi này không phải thực hiện bởi thân hay khẩu, nhưng chỉ là những ý nghĩ trong tâm. Do đó, tham, sân, và tà kiến được gọi là ba hành vi chỉ phát khởi trong tâm.
Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Một khi đã biết đây là những Nghiệp bất thiện thì nên tránh chúng.
Trong mười bất hiện Nghiệp trên, chúng ta không thấy đề cập đến giới uống rượu. Chú giải giải thích là giới uống rượu nằm trong bất Thiện Nghiệp thứ ba, thân bất thiện. Tiếng Pāḷi về giới thứ ba là kāmesu micchācārā. ‘Kāmesu’ có nghĩa là dục lạc thế gian hay năm dục lạc giác quan (dục lạc về sắc, dục lạc về thinh, dục lạc về hương, dục lạc về vị, dục lạc về xúc, dục lạc về pháp) chứ không phải chỉ là dục lạc nam nữ. Như vậy uống rượu và dùng chất say là một hành vi bất thiện thuộc về dục lạc thế gian, đó là vị trần. Như vậy, uống rượu và dùng chất say nằm trong hành vi bất thiện thuộc về thân, nằm trong giới thứ ba: tà hạnh.
Bây giờ chúng ta nói đến Nghiệp thiện.
Có hai nhóm Thập Thiện Nghiệp thuộc dục giới.
Nhóm thứ nhất chỉ là mười Thiện Nghiệp đối nghịch với mười Nghiệp bất thiện ta đã nói trên. Đó là:
1. Không sát sinh,
2. Không trộm cắp,
3. Không tà hạnh,
4. Không nói dối,
5. Không nói lời đâm thọc,
6. Không nói lời nói dữ,
7. Không nói lời vô ích,
8. Không tham (không có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình),
9. Không sân (có từ tâm),
10. Không tà kiến (có chánh kiến) nghĩa là biết nhân biết quả, và biết mọi việc trên thế gian đều tùy thuộc vào một số các việc khác.
Mười Thiện Nghiệp Dục Giới này chỉ là mười Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp mà thôi.
Nhóm mười Thiện Nghiệp thứ hai là:
1. Bố thí: Giúp đỡ người nghèo khó hay dâng cúng thực phẩm và vật dụng đến chư tăng.
2. Trì giới: Giữ giới luật trong sạch: không sát sinh, trộm cắp, tảà hạnh…
3. Tham thiền: Luyện tâm, Phát triển tinh thần
4. Cung kính: Tôn kính người lớn tuổi, tôn kính người đáng tôn kính, nhường chỗ cho người đáng nhường.
5. Phục vụ: giúp đỡ người khác, làm các công việc cho cộng đồng, làm công quả cho chùa, giúp người khác làm việc thiện.
6. Hồi hướng công đức: Trước hết, đi làm phước rồi hồi hướng hay chia phước lành đến mọi người. Chia phước là giúp mọi người có cơ hội được hưởng phước báu qua hành vi phước thiện của mình. Chia phước không có nghĩa là cho người khác hay tặng hoặc bố thí phước báu của mình cho người khác và mình không còn phước báu nữa. Chia phước báu khiến cho phước mình được gia tăng vì chính hành vi chia phước báu là hành vi phước thiện tạo thành Nghiệp tốt.
7. Tùy hỉ: Hoan hỉ với phước báu của người khác, nghĩa là khi được người khác chia phước báu cho ta thì ta nói: Sādhu, sādhu, sādhu (lành thay, lành thay, lành thay). Có nghĩa là ta hoan hỉ, hạnh phúc với phước báu người khác đã tạo. Khi bạn hoan hỉ với phước báu của người khác thì chính bạn cũng được phước báu. Đó là vì khi bạn hoan hỉ, vui mừng thì sự hoan hỉ, vui mừng này đã lấy phước báu của người khác làm đối tượng. Đây là một thiện tâm. Chú giải nói rằng: Dù cho người làm việc phước thiện có chia phước cho bạn hay không, thì bạn cũng có thể hoan hỉ với việc phước thiện của họ đã làm. Như vậy, nếu được người khác chia phước thì bạn hãy nói: “Sādhu, sādhu, sādhu”. Nếu họ không chia phước báu cho bạn, nhưng nếu bạn thấy hay bạn nghe rằng người đó đã làm việc phước thiện thì bạn cũng có thể thực hành việc hoan hỉ phước báu của người khác bằng cách vui mừng hoan hỉ với phước bau này.
8. Nghe pháp: Là nghe giáo pháp của Đức Phật. Việc học các các loại nghệ thuật, điêu khắc, các học thuật chuyên môn để mở mang kiến thức mà không làm hại hay gây thương tổn cho ai cũng bao gồm trong phần nghe pháp.
9. Thuyết pháp: Giảng dạy giáo pháp. Phần này cũng bao gồm cả việc giảng dạy Phật pháp và một vài loại ngành nghề, học thuật không xâm hại hay tổn thương đến kẻ khác và không chống trái những lời dạy của Đức Phật.
10. Có chánh kiến: Có quan kiến đúng đắn, nghĩa là có kiến thức đúng đắn về nhân quả v.v… Quan kiến đúng đắn hay chánh kiến thật ra chỉ là ngược lại với tà kiến. Có quan kiến đúng đắn rất quan trọng, nếu có quan kiến sai lầm thì mọi việc làm của ta đều không phải là Thiện Nghiệp. Chúng ta phải có quan kiến đúng đắn hay chánh kiến về nhân, về quả, và những gì liên quan đến nhân quả.
Ba Thiện Nghiệp đầu tiên: bố thí, trì giới, và tham thiền là ba bước đầu tiên mà người Phật tử phải thực hành.
Bố thí: Trong mười Ba La Mật hay mười phẩm hạnh cao thượng mà một vị Bồ Tát phải thực hành trọn vẹn thì bố thí là pháp đầu tiên. Bố thí (dāna) ở đây có nghĩa là cho ra, giúp đỡ hay cúng dường v.v… Bố thí (dāna) rất quan trọng vì bố thí giúp cho tâm của chúng ta êm dịu, và mềm dẽo. Bố thí còn tạo cơ hội cho chúng ta loại trừ tham ái, dính mắc. Mỗi khi chúng ta cho ra vật gì, không những ta cho ra vật đó mà còn dứt trừ tâm tham ái, dính mắc vào vật đó nữa. Như vậy khi thực hành hạnh bố thí, ta cũng đồng thời thực hành hạnh dứt bỏ, tham ái dính mắc vào vật ta cho ra.
Trì giới: còn được gọi là giữ phẩm hạnh đạo đức. Giữ giới là kiểm soát thân khẩu. Khi giữ giới là ta giữ phẩm hạnh trong sạch, ta không để cho thân và khẩu ô nhiểm bởi hành động và lời nói bất thiện. Là cư sĩ, bạn có thể giữ năm giới hay tám giới như các bạn đang thực hành trong khóa thiền này, nếu bạn muốn thực hành giới luật nhiều hơn bạn có thể giữ mười giới.
Tham thiền: giúp cho tâm thanh tịnh, an lạc hay đưa đến những tiến bộ tinh thần cao, khai mở trí tuệ. Bạn có thể hành Thiền Định hay Thiền Minh Sát. Do hành Thiền Định bạn có thể đạt được định tâm cao. Nếu bạn thành công trong việc thực hành một trong bốn mươi đề mục thiền Định bạn có thể thực hành thêm để có thần thông. Qua hành Thiền Minh Sát bạn sẽ đạt đến chỗ dứt sạch mọi ô nhiểm trong tâm hay đạt cứu cánh Niết Bàn.
Cung kính và phục vụ, Thiện Nghiệp thứ tư và thứ năm: cung kính những người đáng cung kính và phục vụ giúp đỡ mọi người, hai điều này có thể bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ hai, giới luật trong sạch, bởi vì khi bạn thực hành giới bạn kiểm soát hành động và lời nói. Cung kính và phục vụ là một biểu hiện của sự kiểm soát thân và khẩu, do đó được bao gồm trong giới luật, Thiện Nghiệp thứ hai.
Hồi hướng chia phước bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ nhất, bố thí. Tùy hỉ hay hoan hỉ với phước báu của người khác cũng bao gồm trong bố thí bởi vì liên hệ đến sự bố thí, không phải mình cho ra, nhưng người khác cho ra.
Nghe pháp, thuyết pháp, và có quan kiến đúng đắn đều nằm trong Thiện Nghiệp thứ ba là tham thiền. Nghe pháp là một loại phát triển tinh thần. Thuyết pháp cũng thuộc phát triển tinh thần bởi vì bạn đang phát triển tâm mình. Có quan kiến đúng đắn hay có chánh kiến cũng thuộc về phát triển tinh thần.
Như vậy, chúng ta có thể thu gọn mười Thiện Nghiệp còn lại ba Thiện Nghiệp: Bố thí, trì giới, tham thiền nếu ta gộp yếu tố bốn và năm vào yếu tố thứ hai; sáu và bảy vào yếu tố một; tám, chín và mười vào yếu tố ba.
(1) Bố thí, hồi hướng, tùy hỉ,
(2) Trì giới, cung kính, phục vụ,
(3) Tham thiền, nghe pháp, thuyết pháp, chánh kiến
Bây giờ chúng ta đã hiểu Bất Thiện Nghiệp và Thiện Nghiệp, chúng ta có thể theo lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: “Không làm điều ác nào, làm các hạnh lành, thanh lọc tâm ý, đó là lời dạy của chư Phật.” Không làm tất cả các điều ác, tiếng pāḷi là “sabbapāpassa”. “sabba” là tất cả, và “pāpa” là điều ác, như vậy “sabbapāpassa” có nghĩa là tất cả điều ác. Người ta có thể tranh biện: Nếu bạn nói “không làm tất cả những điều ác”, như vậy có nghĩa là “có thể làm ít điều ác”. Bởi thế, ở đây ta phải dịch là “không làm điều ác nào” tức là không làm điều bất thiện, không tạo các ác Nghiệp. Sau đó là “hoàn thành những việc thiện” có nghĩa là vun bồi Thiện Nghiệp hay làm những việc thiện; tiếp theo là thanh lọc tâm ý. Trong tâm chúng ta có nhiều phiền não hay ô nhiễm, bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta hãy thanh lọc tâm. Câu kệ Pháp cú trên Đức Phật dạy chúng ta tránh xa điều ác, vun bồi hạnh lành, và thanh lọc tâm ý.
Chú giải Kinh Pháp Cú giải thích câu đầu của bài kệ này, sabbapāpassa akaraṇaṁ là không làm những hành vi bất thiện, điều này dễ hiểu. Câu thứ hai, kusalassa upasampadā là làm khởi sinh các hành vi thiện lành, và phát triển những gì cần phải phát triển. Như vậy, ở đây câu: “vun bồi thiện tâm” hay “hoàn thành những việc thiện” là làm phát sinh Thiện Nghiệp, và tiếp tục, tiếp tục làm phát sinh Thiện Nghiệp, nghĩa là liên tục tạo Thiện Nghiệp. Câu này có nghĩa không phải chỉ làm việc thiện một lần mà phải tiếp tục làm việc thiện nhiều lần cho đến khi Thiện Nghiệp phát triển. Chú giải cũng nói rằng phải làm việc thiện cho đến khi đạt A La Hán đạo (Arahatta Magga) nghĩa là cho đến khi Giác Ngộ. Tôi nghĩ rằng chú giải liên kết điều này với cuộc đời của Đức Phật. Là một hoàng tử, Đức Phật từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia tu hành. Và trong sáu năm Ngài thực hành khổ hạnh trong rừng, cuối cùng Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, thực hành trung đạo và thành chánh quả. Từ lúc xuất gia cho đến khi Giác Ngộ Ngài đã thực hành và phát triển Thiện Nghiệp. Thứ ba sacittapariyodapanaṁ (Thanh lọc tâm ý , có nghĩa là làm cho tâm trong sạch, thoát khỏi năm chướng ngại. Thanh lọc tâm khỏi năm chướng ngại (phiền não) là một việc làm quan trọng bởi vì bao lâu vẫn còn chướng ngại trong tâm thì vẫn chưa thể hi vọng Giác Ngộ.
Hòa thượng Silānanda – Chuyển ngữ: Sư Khánh Hỷ – Theo Những hiểu biết sai lầm hay tà kiến về nghiệp – Nghiệp báo
http://www.thienvienphuocson.net