Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 9 & 10

HẠNH PHÚC XXXII

Brahmacariya
Hành Phạm hạnh

Hành Phạm hạnh có nghĩa là hành theo pháp cao thượng, nghĩa là hành theo các pháp mà các bậc trí thức ngợi khen, như Giới-Định-Tuệ.

Hành Phạm hanh nghĩa là hành theo pháp Tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỉ, xả.

Người hành theo Phạm hạnh là người muốn sanh về cõi Phạm thiên, là ít nhất phải đắc sơ thiền.

Hành theo Phạm hạnh là sửa chữa mình trở nên người trong sạch, thân, khẩu, ý xa lìa các tội ác, mặc dù tội ấy rất nhỏ.

Hành theo Phạm hạnh là vâng giữ theo lời Phật dạy không dám dễ duôi.

Quý vị xem đến đây là Hạnh phúc thứ XXXII, chắc quí vị nhận định mỗi hạnh phúc là một pháp, mà người muốn được hạnh phúc phải vâng giữ hành theo thì sẽ được hạnh phúc, chớ không có thần thánh nào ban bố cho hạnh phúc cả. Và chắc quí vị cũng thấy rằng Phật giáo không phải là thần thánh hóa, là con đường muốn hạnh phúc phải noi theo đường ấy. Vậy, 38 pháp Hạnh phúc là con đường đưa người đi tới nơi giải thoát, hạnh phúc đi tuần tự. Cho nên, muốn giải thoát phải vâng giữ hành theo từng hạnh phúc một.

Chú giải kinh Hạnh phúc có dạy các bậc trí thức là hành chánh kiến, hành theo hạnh cao thượng. Sự hành động cao thượng ấy gọi là Brahmacariya, nghĩa là Phạm hạnh, vì những hành động ấy không có lẫn lộn với ác pháp, nhưng trái lại, làm cho lòng từ bi tăng trưởng.

Trong bộ Chú giải kinh Hạnh phúc, Đại đức Sirimangala có dạy Phạm hạnh có mười điều là:

1. Dāna: bố thí.

2. Veyyavacca: sự cố gắng giúp đỡ trong các việc phước thiện của người khác.

3. Pancasīla: thọ trì ngũ giới.

4. Appamannā: niệm tứ vô lượng tâm.

5. Methunavirati: xa lánh sự dâm dục.

6. Sadārasantusa: sự tri túc đối vợ nhà (không ngoại tình).

7. Viriya: sự tinh tấn.

8. Uposatha: thọ bát quan trai giới.

9. Ariyamagga: thánh đạo.

10. Sāsanā: lời giáo huấn của Đức Thế Tôn.

Tôi xin giải rộng ra:

1. Bố thí là Phạm hạnh: Trong Túc sanh truyện có nói tiền thân của Đức Thích Ca sanh lại là một vị trí thức, tênVidhura là người có đức hạnh. Ngài được mời đến cõi Long Vương tên Varuna. Trông thấy sự cao sang của Long vương, ngài mới hỏi: “Tâu Đại vương, ngài có nhiều oai lực, sức mạnh, hào quang chiếu rất sáng, vậy là nhờ quả của nghiệp chi?”

– “Trong hai người, trẫm và hoàng hậu, khi sanh làm người, là người có đức tin, làm chủ sự bố thí, nhà của trẫm ví như giếng nước, nghĩa là nơi hội họp của Bà la môn và Sa môn, trẫm lo phụng sự đầy đủ.

Khi ở trong cõi người, trẫm hết lòng thành kính bố thí những tràng hoa, vật thơm, vật thoa, đến chỗ ngủ, nhất là nệm chiếu, chỗ cư ngụ (nhà), y phục, cơm nước, thuốc. Sự bố thí là Phạm hạnh của trẫm. Tất cả những gì trẫm được trong cõi này đều nhờ của quả của Phạm hạnh của trẫm đã tạo ra. Này thiện trí thức, đây là đền đài của trẫm”.

Theo câu của vị Long Vương nói trên đây, bố thí là một Phạm hạnh. Bố thí là nguyên nhân phát khởi làm cho ta có tác ý lành, có thể đem của cải ra cho người khác.

Người muốn cho bố thí phước báo được hoàn toàn trong sạch phải có đủ nguyên nhân. Trong Tam Tạng, bộAnguttaranikāya, Đức Thế tôn dạy Ngài ngụ tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc, gần thành Thất La Phiệt, có một bà tín nữ bố thí đúng theo 6 pháp đến chư Tăng, trong ấy có Đại đức Xá Lợi Phất và Mục kiền Liên. Đức Thế Tôn trong thấy bằng tuệ nhãn, nên ngài gọi các thầy Tỳ khưu đến dạy rằng: “Này các thầy Tỳ khưu, cô tín nữ tên Velukandakinadamatā đang bố thí hợp 6 chi đến chư Tăng, có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là tọa chủ. Vậy 6 chi ấy la gì? Là người thí chủ phải có 3 chi, và người thọ thí phải có 3 chi.

Ba chi của thí chủ là:

– Thí chủ phải có tâm trong sạch trước khi bố thí.

– Lúc đang bố thí tâm cũng phải trong sạch.

– Khi cho xong cũng làm cho tâm trong sạch.

Ba chi của người thọ lãnh là:

– Người thọ lãnh hết tham ái hoặc đang hành để diệt trừ lòng tham ái.

– Hết sân hận hoặc đang hành để diệt trừ sân hận.

– Hết si mê hoặc đang hành để diệt trừ si mê.

Người bố thí được quả báo là:

– Dānam Saggasopānam: bố thí la cái thang đi đến cõi trời.

– Dānamā Pāyassa channam: bố thí cho được bốn đường ác, nghĩa là nhờ bố thí mà khỏi sanh vào ác đạo.

– Dānam sahāyasambhūtam: bố thí là người bạn đường ngày vị lai.

– Pātheyya muttānam: bố thí là tư lương (vật thực riêng) Niết Bàn, rất cần yếu của người đi đường xa (là luân hồi).

– Mokkhappathavanam: bố thí là con đường đi đến Niết Bàn.

2. Sự gắng giúp đỡ trong việc làm phước thiện của người khác: Bộ chú giải Hạnh phúc kinh có dạy tiếng Veyyavacaở đây nghĩa là gắng tìm kiếm giúp đỡ người trưởng thượng hay người có ơn hoặc các bậc xuất gia như Sa môn, Tỳ khưu, Bà la môn, những gì mà các ngài cần ta giúp.

3. Thọ trì ngũ giới: Ngũ giới là Phạm hạnh thứ ba. Ngũ giới là 5 điều luật chẳng phải khi Phật thành đạo mới có 5 điều luật ấy; thật ra, 5 điều này đã có từ trước. Nếu trong thế gian này, người không thọ trì ngũ giới thì thế giới không tồn tại được vì nạn giết hại nhau.

Ngũ giới là một trong Phạm hạnh. Nhờ có ngũ giới nên chúng sanh cũng được an vui, trong bộ AnguttaranikāyaĐức Thế Tôn có dạy:

Yo param nātipateti

Musavadam na bhasati

Kayassa bheda sappanno

Sugatimiti vuccati.

Nghĩa là người trong đời này, kẻ nào không sát sanh, không nói dối, không trộm của người, không tà dâm, không uống chất say, kẻ ấy gọi là người dứt được năm nghiệp chướng. Thiện trí thức gọi là người có giới đức, người có trí, sau khi quá vãng được sanh về cõi trời.

Theo câu Phật ngôn thì ngũ giới là nhân đưa ta đến cõi trời, được an vui, không mất tiền mua.

Trong bài kinh Mahaparinibbāna, bộ Digha-nikāya, Đức Thế Tôn có dạy rằng: Này các thầy Tỳ khưu, người có giới hạnh trong sạch được 5 điều quả báo là:

– Người có giới đức đầy đủ trong sạch sẽ được nhiều tài sản quí báu, nguyên nhân bởi không dễ duôi. Đây là quả thứ nhất.

– Người có giới đức đầy đủ trong sạch sẽ được tiếng tốt đồn đi khắp nơi. Đây là quả thứ hai.

– Người có giới đức đầy đủ trong sạch, khi hội họp với dòng vào nhà vua, chúa, Bà la môn v.v… cũng không kinh sợ gầm mặt xuống (nghĩa là không hổ thẹn vì có lỗi). Đây là quả thứ ba.

– Người có giới đức đầy đủ trong sạch là người không si mê khi quá vãng. Đây là quả thứ tư.

– Người có giới đức đầy đủ trong sạch, sau khi bỏ thân này, sẽ được sanh về cõi trời. Đây là quả thứ năm.

Ngũ giới đã giải trên gọi là Phạm hạnh.

4. Tứ vô lượng tâm: Trong bài kinh Mahā-govinda bộ Dighanikāya, Đức Thế Tôn có dạy rằng:

Có lúc nọ Đức Thế Tôn ngụ tại núi Gijjha-kūta, gần thành Vương Xá. Khi ấy có vị Càn thát bà tên Pāñcasikha từ cõi trời đến hầu Đức Thế Tôn giữa đêm thanh vắng. Ông Pāñcasikha mới hỏi Đức Thế Tôn về lời ông đã nghe vị Phạm thiên tên Samankumāra dạy chư thiên rằng:

“Có thầy Bà la môn tên Mahāgovinda là một trong 7 vị đại thần của vua Renura xuất gia, sau ấy có nhiều người xuất gia theo làm đệ tử ông, phần đông đều thuộc dòng hoàng tộc. Thầy Bà la môn Mahāgovinda tham thiền tứ vô lượng tâm, đắc được phi phi tưởng thiền, ngài thường giảng giải lý cho hành đệ tử rằng vị nào vâng giữ được thực hành theo, đều được sanh về ít nhất là cõi trời. Sự xuất gia của người ấy được kết quả tốt lành tùy theo Phạm hạnh của mình. Bạch Đức Thế Tôn ngài còn nhớ chuyện ấy chăng?”

– “Này Pāñcasikha, Như Lai biết rõ chuyện ấy lắm. Vì Mahāgovinda ấy là Như Lai đây. Như Lai có thuyết pháp chỉ cõi trời Phạm thiên cho đệ tử.

Nhưng Pāñcasikha này, những Phạm hạnh này không phải pháp hành thoát khỏi luân hồi, không phải hành để hiểu rõ luân hồi, không phải hành để thức tỉnh khỏi luân hồi, không phải hành hầu đến Niết Bàn. Hành như thế chỉ đến cõi Phạm thiên là cùng.

Này Pāñcasikha, nhưng Phạm hạnh nào là Bát Chánh Đạo, mới là pháp hành đắc được quả Niết Bàn”.

Trong cuộc đối thoại trên đây, Đức Thế Tôn dạy tứ vô lượng tâm là Phạm hạnh. Tứ vô lượng tâm theo Phật dạy, mỗi một chi có 11 điều quả báo. Nhưng mỗi chi có kết quả khác nhau.

– Sự dứt bỏ oán thù là quả của từ tâm.

– Sự dứt bỏ điều làm hại người là quả của tâm bi.

– Sự dứt bỏ điều bực tức hoặc không vừa lòng là quả của tâm hỉ.

– Sự tiêu diệt của tham ái là quả của tâm xả.

Hơn nữa, tâm từ là phương pháp làm cho con người không oán thù; tâm bi là phương pháp làm cho người không có sự làm hại kẻ khác; tâm hỷ là phương pháp làm cho người không có nhiều bực tức, không vừa lòng; tâm xả là phương pháp làm cho người dứt được lòng tham ái.

Người muốn rải lòng từ, bi, hỉ, xả phải có những phương pháp là:

– Anodhiso pharanā: rải không phân biệt nam nữ.

– Odhiso pharanā: rải còn phân biệt nam nữ.

– Disāpharanā: rải cùng phương hướng.

Phương pháp rải không phân biệt nam nữ có năm pháp:

a) Sabba sattā averā abyapajjhā anīghā sukhī attānam paribārantu: nghĩa là: tất cả chúng sanh đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

b) Sabbe pānā averā: tất cả loài có thức tánh đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

c) Sabbe bhūtā averā: tất cả hàng Bhūta (hạng đã sanh) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

d) Sabbe puggalā averā: tất cả Puggalā (người) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

e) Sabbe attabhāvapariyapannā: tất cả Atta-bhāva (tất cả những người còn sống) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

Dưới đây tôi xin chú giải những pháp nói trên.

Satta: (chúng sanh) nghĩa là người còn dính, ý nói người còn ham mê tình dục, là người còn phiền não, còn dính trong luân hồi.

Pāna: nghĩa là hạng còn sống bằng hơi thở ra vào.

Bhūta: nghĩa là người sanh trong cảnh giới.

Puggalā: nghĩa là người ta.

Attabhāva: nghĩa là thuộc hạng có thức tánh, hay biết rằng có thân này.

Năm hạng trên chỉ khác nhau trong danh từ, nhưng chung qui đều là chúng sanh,

Phương pháp rải còn phân biệt nam nữ có 7 pháp:

a) Sabbe atthiyo averā abyapajjhā ānighā sukhi attānam parihārantu: tất cả hàng phụ nữ đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, đừng làm hại nhau, hãy giữ mình cho được an vui.

b) Sabbe pursā averā: tất cả người nam đừng cột oan trái nhau…

c) Sabbe purisā averā: Tất cả các bậc Thánh nhân đừng cột oan trái với nhau… (Sự thật thì các bậc Thánh nhân không bao giờ cột oan trái với nhau, nhưng đây bài kinh kể cho đủ các hạng và để tương đối với các câu sau thôi).

d) Sabbe anariya averā: tất cả hạng không phải Thánh nhân (tức là phàm nhân) đừng cột oan trái nhau…

e) Sabbe devā averā: Tất cả chư thiên đừng cột oan trái nhau…

f) Sabbe manussā averā: Tất cả nhân loại đừng cột oan trái nhau…

g) Sabbe vinipārtikā averā: Tất cả hạng sinh vào ác đạo đừng cột oan trái nhau…

Phương pháp rải đi khắp các hướng có 10 pháp:

a) Sabbe puratthimāya disāda averā, abyapaj-jhā, anīghā skhī attānam parihārantu: Tất cả chúng sanh ở hướng Đông xin đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.

b) Sabbe pacchimāda disāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Tây…

c) Sabbe uttaraya disāya sattā avera: Tất cả chúng sanh ở hướng Bắc…

d) Sabbe dakkināya disāya: Tất cả chúng sanh ở hướng Nam…

e) Sabba puratthimāya anudisāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Đông Nam…

f) Sabbe dakkhināya anudisāya sattā: Tất cả chúng sanh ở hướng Đông Bắc…

g) Sabbe pachimāya anudisāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Tây Nam…

h) Sabbe Uttarāya anudīsāya sattā averā… Tất cả chúng sanh ở hướng Tây Bắc…

i) Sabbe hetthimāya disāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng dưới…

j) Sabbe uparimāya disāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng trên…

Cách rải lòng bi, hỉ, xả cũng như rải lòng từ vậy.

Tứ vô lượng tâm nếu muốn giải tóm tắt thì như vầy:

– Tâm từ: Sabbe sattā averā hontu – tất cả chúng sanh không nên cột oan trái nhau.

– Tâm bi: Sabbe sattā dukkhā pamuñcantu – tất cả chúng sanh khỏi khổ.

– Tâm hỉ: Sabbe sattā laddhasampattito māvi-gacchantu – tất cả chúng sanh đừng bị hư hoại tài sản là sự an vui thạnh lợi của mình.

– Tâm xả: Sabbe sattā kamassaka kamma-dāyadā – tất cả chúng sanh có nghiệp của mình, nghiệp là sản nghiệp của mình (phải thâu nhận không thể từ chối được).

Theo những lời giảng của những bậc trí thức, thì người muốn rải lòng từ phải nghĩ đến nổi khổ của chúng sanh làm đề mục. Đề mục của tâm bi là khi thấy chúng sanh đau khổ mà thương hại. Đề mục của tâm hỉ là nghĩ đến của cải mà người ta đã được để vui theo, chớ không ganh tỵ. Đề mục của xả là khi thấy chúng sanh được vui hay bị khổ đều nghĩ rằng đây là do nơi quả của nghiệp mà họ tạo ra từ kiếp trước nên không bi quan hay vui mừng.

5. Sự xa tránh điều dâm dục: Tại sao lại xa tránh dâm dục? Vì pháp này là pháp của người còn ham mê trong vòng luân hồi, của người thế tục, không phải của các bậc xuất gia. Người giết hại nhau một phần cũng vì còn lẫn với sự bất hảo ấy. Nên người xa lánh dâm dục là người hành phạm hạnh.

6. Sự biết tri túc với vợ nhà: Nghĩa là người đã có vợ chỉ biết thương yêu vợ nhà mà thôi, không tư tình với kẻ khác; phụ nữ cũng biết yêu thương chồng thôi không ngoại tình. Rất nhiều gia đình vì thiếu pháp này nên hằng bị xáo trộn nếu không nói là tan vỡ. Vậy nên sự biết tri túc trong tình dục là phạm hạnh đem an lành đến cho gia đình.

7. Sự tinh tấn: Nghĩa là không bỏ qua việc lành. Đây xin nhắc lại Phật ngôn để làm tài liệu.

– Idha bhikkhave bhikkhunākammam kattab-bamhoti: Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu trong Phật giáo, khi nào có phận sự cần phải làm không thể bỏ qua được, thầy Tỳ khưu ấy nghĩa rằng: Thế nào ta cũng làm chuyện này, khi ta làm xong rồi chưa chắc ta có gì hành đạo được; vậy ta phải cố gắng hành tinh tấn trước, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy liền cố tinh tấn. Đây là nguyên nhân sanh ra sự siêng năng.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, một lẽ nữa, khi thầy Tỳ khưu làm xong việc, mới nghĩ rằng: Ta đã làm việc ấy xong, trong khi ta làm, ta không cố gắng hành đạo; vậy (bây giờ) ta phải cố gắng hành, để đặc ân mà ta chưa được. Đây là nguyên nhân sanh ra sự siêng năng.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu có việc đi xa, thầy Tỳ khưu nghĩ rằng: Thế nào ta cũng phải đi xa (trong khi) đi, ta không thể hành đạo được đầy đủ; vậy trước hết ta phải cố gắng hành (tròn phận sự) hầu đuợc đặc ân mà ta chưa được. Thầy ấy cố tinh tấn. Đây là nguyên nhân thứ ba của sự phát sanh sự siêng năng.

– Puna capara bhikkave: Này các thầy Tỳ khưu, khi thầy Tỳ khưu nghĩ rằng: Ta đã đi đường xong rồi, trong khi đi, ta không thể chủ ý hành phận sự được; vậy ta nên chủ ý cố tinh tấn hành đạo, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành. Đây là nguyên nhân thứ tư của sự phát sanh siêng năng.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu vào xóm khất thực, không được vật thực nào mặc dù rất rẻ tiền, hoặc không đủ no, vị ấy nghĩ rằng: Ta khất thực vật thực không đủ no, thân ta được nhẹ nhàng vừa hành thiền định được; vậy ta cố gắng tinh tấn hành, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố gắng hành. Đây là nguyên nhân thứ năm làm cho phát sanh sự siêng năng tinh tấn.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, hơn nữa có thầy Tỳ khưu vào xóm khất thực, khi được vật thực vừa đủ no, vị ấy mới nghĩ rằng: Ta khất thực vật thực vừa đủ no, thân ta được an vui, vừa với sự hành thiền định; vậy ta nên cố gắng hành, hầu được đặc ân mà ta chưa có. Thầy Tỳ khưu ấy cố gắng hành. Đây là nguyên nhân phát sanh sự siêng năng thứ sáu.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu có chút bệnh nghĩ rằng: Ta là người có bệnh , thế nào bệnh này cũng tăng thêm; vậy ta nên gắng tinh tấn hành đạo, hầu đắc được đặc ân mà ta chưa đắc. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành theo. Đây là nguyên nhân thứ bảy của sự tinh tấn, siêng năng.

– Puna caparam bhikkhave: Này các thầy Tỳ khưu, khi thầy Tỳ khưu vừa mới lành bệnh mới nghĩ rằng: Ta đã mạnh rồi, nhưng chừng bệnh ấy cũng có thể trở lại được; vậy ta phải cố gắng trước, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành. Đây là nguyên nhân sanh ra sự siêng năng thứ tám.

Người cố tâm hành theo thiện pháp, khi biết nhân phát sanh sự lười biếng và siêng năng thì hãy cố dứt sự lười biếng, không nên để thối chuyển. Đây là Phạm hạnh thứ 7.

8. Bát quan trai giới: Là 8 điều răn cấm của Đức Thế Tôn, đã có giải ở đoạn trước.

Trong bộ Mahānipā ta có tích của đức vua Nimarāja rằng:

Đức vua Nimarāja trị vì tại xứ Mithalā thành Vedeha, là một nhà vua rất nhân từ, trong những ngày bát quan trai giới ngài thường đi bố thí. Ngày nọ nhằm ngày bát quan trai giới, ngài thọ giới xong, đêm lại ngài tự hỏi rằng: “Bố thí và thọ bát quan trai giới, điều nào cao quí hơn?”. Ngài không giải quyết được. Đức Đế Thích biết nên mới hiện xuống. Đức vua Nimarāja biết là Thiên Vương Đế Thích nên mới hỏi về sự nghi ngờ của mình.

Thiên vương đáp bằng câu kệ:

Hinena barahmacariyena

Khattiyam upapajjati

Yekāyeupamajjhant

Anāgārā tapassino

Nghĩa là người nào được sanh vào dòng vua là do Phạm hạnh bậc thấp, sanh làm chư thiên là do Phạm hạnh bậc trung, sanh vào cõi Phạm thiên là nhờ Phạm hạnh trong sạch. Người xuất gia nếu có Tapa, thì sẽ được sanh vào cõi Phạm thiên. Thí chủ không thể sanh vào cõi Phạm thiên được.

Chú giải dạy rằng Phạm hạnh bậc thấp là do nhờ sự trì giới của ngoại đạo, chỉ cố xa sự dâm dục mà thôi. Vì những hạng này, không hiểu phương pháp nào hơn Phạm hạnh bậc trung là thọ trì bát quan trai giới có tham thiền được cận định, sau khi chết được sanh vào cõi trời.

Đây là nói sự bố thí phước báu không cao thượng bằng thọ trì bát quan trai giới; quí vị muốn biết rõ hơn xin xem thời pháp về bát quan trai giới.

9. Thánh đạo: Nghĩa là con đường của các bậc thánh nhân, con đường này đi đến nơi vô sanh bất diệt là Niết Bàn.

Trong bài kinh Brahmacariya bộ Samyutta-nikāya, Đức Thế Tôn có dạy về Thánh đạo như vầy:

Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá. Khi ấy có một Tỳ khưu vào hầu Đức Thế Tôn và bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn thuyết Phạm hạnh là chi? Một lẽ nữa, đâu là nơi cùng tột của Phạm hạnh?”

– “Này thầy Tỳ khưu, con đường có đủ tám chi là con đường cao thượng, gọi là Phạm hạnh; con đường có đầy đủ tám chi ấy là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nơi hết tham ái, sân hận, si mê là nơi cùng tột của Phạm hạnh”.

Theo bài kinh này, Đức Thế Tôn dạy Thánh đạo là Phạm hạnh. Sau đây tôi xin nhắc lại một ít Phật ngôn dạy về Thánh đạo:

“Này các thầy Tỳ khưu, thấy rõ điều khổ, thấy rõ ái dục là nguyên nhân sanh khổ, thấy rõ Niết Bàn là nơi diệt khổ, biết con đường đi đến Niết Bàn là nơi không có khổ. Các thầy Tỳ khưu này, Như Lai gọi các thầy ấy là có chánh kiến.

Này các thầy Tỳ khưu, suy xét về việc xuất gia, suy nghĩ trong sự không oán thù, suy nghĩ trong sự không làm hại nhân vật nào khác. Như Lai gọi là chánh tư duy.

Này các thầy Tỳ khưu, xa lánh sự nói dối, nói biếm, nói đâm thọc, mắng nhiếc, chửi rủa, nói lời vô ích, Như Lai gọi là chánh ngữ.

Này các thầy Tỳ khưu, xa lánh sát sanh, trộm cướp, tà dâm, Như Lai gọi là chánh nghiệp.

Này các thầy Tỳ khưu, dứt bỏ tà mạng, hành theo chánh mạng, Như Lai gọi là chánh mạng.

Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu trong Phật giáo, thoả thích trong sự tinh tấn và cố tinh tấn gom tâm lại, làm cho tâm trụ lại một chỗ, hầu ngăn ngừa các pháp ác chưa phát sanh, không cho phát sanh. Thầy Tỳ khưu thỏa thích trong sự tinh tấn, làm cho tâm trụ vào một chỗ hầu dứt hết các pháp ác đã phát sanh rồi. Thầy Tỳ khưu thỏa thích trong sự tinh tấn cố tinh tấn, gom tâm lại, cố làm cho tâm trụ vào một chỗ, hầu để vun trồng mầm phước thiện chưa phát sanh cho sanh lên. Thầy Tỳ khưu làm cho sự thỏa thích phát sanh là tinh tấn, cố tinh tấn làm cho ta tâm trụ vào một chỗ, hầu làm cho phước thiện càng mạnh mẽ thêm. Này các thầy Tỳ khưu, bốn điều này gọi là chánh tinh tấn.

Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu trong Phật giáo, hằng quan sát thân này là vật trược (niệm thân), cố tinh tấn tiêu trừ phiền não, là người không dễ duôi, dứt bỏ tham, sân, si, không chấp rằng ngũ uẩn là của ta, Như Lai gọi là chánh niệm.

Này các thầy Tỳ khưu,vị Tỳ khưu trong Phật giáo, để tâm vắng lặng (nghĩa là không say mê theo ngũ trần) đắc được sơ thiền, đến ngũ thiền, người có trí nhớ đầy đủ, Như Lai gọi là chánh định.

10. Lời giáo huấn: Là lời giảng dạy của Đức Thế Tôn. Lời giáo huấn của Đức Phật là Tam Tạng Pháp bảo, có tám muôn bốn ngàn pháp môn. Tam Tạng Pháp bảo có thể nói tóm tắt là:

a) Adhisīlasikkha: giới, chỉ về sự ngăn ngừa, chế ngự thân và khẩu cho trong sạch.

b) Adhisamadhisikkha: định, chỉ về tham thiền theo chỉ quán và minh sát.

c) Adhipaññasikkha: tuệ, chỉ về minh sát tuệ, quan sát thấy ba hướng là vô thường, khổ não và vô ngã.

Hành Phạm hạnh được hạnh phúc là:

1. Là việc làm đại công đức.

2. Là người không dễ duôi.

3. Là người hành theo Phật dạy.

4. Các bậc trí thức ngợi khen.

5. Tam học là giới, định, tuệ được phát triển.

6. Làm cho mình được giải thoát.

7. Hoàn toàn an vui.

8. Bồi đắp Ba la mật.

9. Chắc chắn khỏi luân hồi.

10. Diệt được phiền não hoàn toàn.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.