Hạnh Phúc Chân Thường – Phần IV

LƯƠNG THIỆN LÀ ĐỐI LỰC CỦA TỰ TY-PHÁT HUY TỰ TÍN

Tự tin là điều kiện căn yếu để đạt được mục tiêu. Điều này đúng dù mục tiêu của chúng ta là một mảnh bằng, xây dựng một doanh nghiệp thành công, vui hưởng một mối liên hệ thỏa đáng hoặc huấn luyện tâm thức để có được một cuộc sống hạnh phúc. Tự lượng giá thấp hay tự ty làm cản trở những cố gắng vượt lên/tiến tới, đối diện với thử thách, chấp nhận những rủi ro nếu cần để theo đuổi mục tiêu. Phát huy tự tín cũng nguy hiểm không kém. Những kẻ đã đau khổ vì phóng đại khả năng và kỹ năng của mình thường liên tục bị bực bội, thất vọng và giận dữ khi thực tế hiện ra phũ phàng và cuộc đời không chuẩn nhận quan điểm lý tưởng của họ. Hậu quả là lúc nào họ cũng gần như chìm đắm trong cảm tưởng trầm uất vì không đạt được mẫu mực lý tưởng mà họ đề ra. Thêm nữa, tính quy mô/tính vĩ đại của họ thường dẫn đến ý tưởng cho mình là hơn người, một loại kiêu căng làm họ xa cách với quần chúng và điều này ngăn cản họ, không cho phép họ có được những liên hệ thỏa đáng với tha nhân. Sau cùng, những ước định quá tầm thường khiến họ dấn thân vào những hiểm tai cao độ. Viên thám tử Harry Callahan (với biệt danh Dirty Harry) trong phim Magnum Force đã phát biểu thật sâu sắc và đầy triết lý khi nhìn thấy kẻ tội đồ quá tự tin đang nổ tung thân xác: “Người ta phải biết những giới hạn của mình.”

Trong ngành tâm lý trị liệu của Tây phương, các lý thuyết gia đã liên kết hai trạng thái thiếu tự tin cũng như quá tự tin với những rối loạn cảm xúc và đã tìm tòi nguyên nhân của những rối loạn này của người ta lúc thiếu thời. Nhiều lý thuyết gia đã coi tự ty và tự tôn là hai mặt của cùng một đồng tiền, họ đã khái niệm hóa sự phóng đại hình ảnh chính mình của con người như trong trường hợp tâm lý phòng thủ của vô thức nhằm chống lại những bất ổn căn bản cũng như cảm tưởng tiêu cực của chính họ. Đặc biệt là các chuyên viên trị liệu có khuynh hướng phân tích đã đưa ra những lý thuyết để giải thích tại sao lại có những biến dạng trong hình ảnh chính mình. Họ cho rằng sự thành hình của hình ảnh chính mình là khi con người nội tại hóa các thông tin phản hồi của ngoại cảnh. Các chuyên viên mô tả con người đã phát huy ý niệm ‘họ là ai’ bằng cách phối hợp những thông điệp rõ rệt cũng như tiềm ẩn từ cha mẹ họ và những rối loạn cảm xúc đã xảy ra như thế nào khi mối tương tác với người bảo hộ vào thưở ấu thơ không được tốt đẹp và không giúp sự phát triển. Khi những rối loạn trong hình ảnh chính mình đủ nghiêm trọng để gây ra những rắc rối lớn lao trong cuộc sống, đa số những người này tìm đến ngành tâm lý trị liệu. Các trị liệu viên chuyên về nội tâm chú trọng vào việc giúp bệnh nhân hiểu rõ các dạng mẫu thiếu chức năng trong các mối liên hệ thưở nhỏ đã gây tạo những rối rắm cho người bệnh, đồng thời, các chuyên viên cũng cung cấp cho người bệnh những thông tin phản hồi và bối cảnh trị liệu thích hợp nhằm giúp người bệnh dần dà tái cấu trúc cũng như sửa đổi những điểm tiêu cực trong hình ảnh chính mình của người bệnh.

Quan điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma thì khác hẳn. Ngài chú trọng vào việc nhổ mũi tên ra thay vì dùng thì giờ vào việc tìm xem ai đã bắn mũi tên đó. Nghĩa là thay vì tìm hiểu tại sao người ta có khuynh hướng tự lượng giá thấp hoặc tự lượng giá cao, đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra phương pháp giúp người ta chiến đấu trực tiếp hầu loại bỏ những tình trạng tiêu cực này của tâm thức. Trong vài thập niên vừa qua, bản chất của ‘cái tôi’ là một trong những đề tài được nghiên cứu tỉ mỉ nhất trong khoa tâm lý. Những năm khoảng 1980 được tâm lý học mệnh danh là ‘Thập Kỷ của Cái Tôi’ và mỗi năm đã có hàng ngàn bài tham luận xuất hiện để mổ xẻ những vấn đề liên hệ đến tự tin và tự lượng giá. Với những ý tưởng này trong đầu, tôi trình bày vấn đề với đức Đạt Lai Lạt Ma:

“Trong một buổi bàn luận trước đây, Ngài có đề cập đến tính khiêm nhượng được coi là một thiên hướng tích cực và nó liên hệ nhiều đến việc phát huy nhẫn nhục và khoan nhượng. Trong tâm lý học Tây phương, và trong lối sống Âu tây nói chung, khiêm tốn gần như đã bị bỏ quên, và người ta chỉ chú tâm đến việc phát huy những cá tính như tự lượng giá và tự tin. Đúng ra, Tây phương đã đặt rất nhiều kỳ vọng vào những cá tính này. Tôi không biết Ngài có cho rằng Tây phương đã quá đề cao, quá nhấn mạnh đến tự tin, một hình thức chỉ còn biết có mình, tự nuông chiều mình quá đáng?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Không hẳn như vậy tuy vấn đề có thể rất phức tạp. Thí dụ như các hành giả tâm linh vĩ đại là những người đã thệ nguyện, đã phát huy quyết tâm nhằm xóa bỏ tất cả các trạng thái tiêu cực của tâm thức với mục tiêu đem lại hạnh phúc trường cửu cho tất cả chúng sinh. Họ có được cái nhìn thâm diệu và nguyện vọng nghiêm túc. Điều này cần đến một loại tự tin vô cùng mãnh liệt để giúp họ có được một tâm thức dũng mãnh hầu hoàn thành các mục tiêu cao cả. Như thế, hình thức này như nhuốm vẻ cao ngạo nhưng không tiêu cực. Vì dựa trên những lý do rất tốt đẹp, tôi nghĩ rằng họ là những người vô cùng can đảm, là những anh hùng chân chính.”

Tôi tiếp lời: “Vâng, đối với những vị đạo sư vĩ đại, dáng dấp cao ngạo bên ngoài thật ra là một thứ tự tin và can đảm chân chính, nhưng đối với con người bình thường, trong các điều kiện sống thường nhật, sự việc như có vẻ trái ngược. Những người có nhiều tự tin, tự lượng giá cao thường là những kẻ kiêu kỳ, ngạo mạn. Phật giáo đã coi kiêu mạn là một cảm xúc khổ não căn để. Tôi cũng có dịp được đọc một danh sách của một hệ phái Phật giáo đề cập đến bảy loại kiêu mạn khác nhau[3]. Cho nên chế ngự kiêu mạn là điều rất hệ trọng trong tư tưởng Phật giáo. Nhưng theo tôi thì quá tự tin cũng không khác gì mấy và biên giới giữa hai ý niệm này thật rất mong manh. Xin Ngài cho biết làm sao để phân biệt chúng và làm sao để phát huy tự tin cùng lúc với giảm thiểu kiêu căng?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý: “Đôi khi rất khó mà phân biệt rõ ràng giữa tự tin và kiêu mạn. Chúng ta có thể phân biệt chúng bằng cách xem những cảm xúc này có dựa trên căn bản đúng đắn/tốt đẹp hay không. Người ta có thể có địa vị ưu đãi đối với người khác trong một mối liên hệ nếu họ có những lý do vững chắc, được biện minh rõ ràng, và ngược lại, cũng có người tìm cách thổi phồng cái tôi mà không có căn bản thích đáng. Cho nên theo hiện tượng luận thì hai cảm xúc này khá gần gũi với nhau …”

“Nhưng những kẻ kiêu mạn thường tự cho rằng họ có lý do chính đáng …”

Đức Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận: “Đúng, đúng như vậy.”

Tôi hỏi tiếp: “Vậy thì làm sao để phân biệt chúng?”

“Tôi cho rằng đôi khi, chúng ta phải dùng hồi quang phản chiếu để biện giải hoặc dùng viễn tượng của nhân vật thứ ba (kẻ bàng quan).” Đức Đạt Lai Lạt Ma cười và nói đùa: “Không chừng chúng ta phải vác chiếu ra tòa để biết đó là tự tin hay kiêu mạn!” Ngài nói tiếp: “Để phân biệt giữa tự tin và kiêu mạn, chúng ta có thể nhìn vào thái độ của con người. Kiêu mạn hay cao ngạo thường dẫn đến những hệ quả tiêu cực trong khi tự tin đưa đến các hệ quả tích cực. Cho nên khi phân tích tự tin, chúng ta phải để ý đến động lực nằm sau ý niệm này mà theo tôi thì có hai loại: Một là cái tôi chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn những ước vọng của mình, những ham muốn ích kỷ và hoàn toàn làm ngơ đối với phúc lợi của tha nhân. Cái tôi thứ hai ngược lại, dựa trên mối quan tâm đến người khác và ước muốn phục vụ. Để thỏa mãn ước nguyện phục vụ tha nhân, người ta cần đến tự tin và ý niệm tự tin này thường là nguyên do của những hậu quả tích cực.”

Tôi hỏi: “Trước đây Ngài có nói rằng một trong những phương pháp để giảm bớt kiêu mạn (nếu người ta hiểu rằng kiêu mạn là xấu và muốn khắc phục nó) là quán tưởng về những khổ nạn của chính mình, quán sát tất cả những hình thái khổ não mà chúng ta có thể gặp phải … Ngoài quán tưởng ra, chúng ta còn có kỹ thuật hay phản đề nào khác để đối trị kiêu mạn không?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp: “Một đối lực của kiêu mạn là nghĩ đến tính đa dạng của vấn đề. Thí dụ như trong chế độ học vấn tân tiến ngày nay có vô số những ngành học khác nhau. Chỉ cần xét xem mình hiểu biết được bao nhiêu trong vô số các môn học đó thì cảm giác kiêu mạn có thể suy khuyết bớt.” Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một lúc lâu. Nghĩ rằng Ngài không còn gì để nói về đề tài này, tôi nhìn sổ tay và định chuyển sang chủ đề khác thì đức Đạt Lai Lạt Ma bỗng nói tiếp: “Chúng ta đã đề cập đến việc phát huy lòng tự tin một cách lành mạnh. Tôi đoán rằng thành thực và tự tin có liên hệ mật thiết với nhau.”

Tôi hỏi: “Ngài định nói về sự thành thực với chính mình về khả năng của chúng ta hay Ngài có ý nói chúng ta phải thành thực với người khác?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Cả hai! Càng thành thực, chúng ta càng cởi mở và ít lo sợ vì không có gì phải dấu diếm nên người ta không có cảm giác e ngại khi mở lòng ra với tha nhân. Vì vậy, càng thành thực chúng ta sẽ càng tự tin.”

Tôi ngắt lời: “Xin Ngài cho biết thêm một ít về cá nhân Ngài đã ứng phó thế nào với ý niệm tự tin. Vì trước đây Ngài có cho biết rằng nhiều người đã đến để xin Ngài ban phép lạ. Người ta có vẻ đặt quá nhiều kỳ vọng và do đó tạo ra áp lực nặng nề đối với Ngài. Như vậy, dù được thúc đẩy bởi một động lực chính đáng, liệu những áp lực này có gây ra cảm giác thiếu tự tin trong năng lực của Ngài không?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp: “- đây chúng ta nên thận trọng khi quan niệm thế nào về ‘thiếu tự tin’ và ‘thêm tự tin’ về một hành động đặc biệt nào đó hay bất cứ điều gì. Để có thể nói ‘thiếu tự tin’ người ta phải biết chắc chắn rằng chúng ta có khả năng làm một điều gì đó hay chuyện đó nằm trong lãnh vực của chúng ta. Và khi một vấn đề nằm trong giới hạn của mình mà chúng ta không làm được thì cảm giác ‘Ô, tôi không đủ khả năng, tôi không làm nổi’ bắt đầu xuất hiện. Còn trong trường hợp của tôi, cảm giác không làm được các phép lạ không làm tôi thiếu tự tin, đơn giản chỉ vì tôi không bao giờ có khả năng ấy tự ban đầu. Tôi không bao giờ cho rằng mình có thể làm được những việc mà chỉ có những bậc toàn giác, chư Phật mười phương mới làm được như hiểu thấu mọi chuyện, lĩnh hội mọi thứ, làm đúng mọi điều vào bất cứ lúc nào. Cho nên khi người ta đến xin tôi chữa trị những bệnh nan y, làm các phép lạ … tôi không cảm thấy thiếu tự tin mà tôi chỉ cảm thấy lúng túng, khó xử.

“Do vậy mà trên bình diện tổng quát, thành thực với mình, với người về khả năng đảm đương công việc có thể khiến chúng ta không bị cảm giác thiếu tự tin.

“Nhưng nói đi rồi nói lại, thí dụ như trong công cuộc đối phó với nhà cầm quyền Hoa lục, đôi khi tôi cảm thấy thiếu tự tin. Tôi vẫn thường hỏi ý kiến của các viên chức nội các lẫn người bên ngoài, tôi hỏi ý kiến của bạn hữu, đàm đạo với họ … Sau khi đã tham khảo rộng rãi, tôi mới làm các quyết định dựa trên những ý kiến này. Cho nên sau khi quyết định, tôi ít khi hối hận vì đã hấp tấp hay thiếu sót.”

Không lo sợ và tự lượng giá một cách trung thực là một thứ vũ khí hữu hiệu để đối lại với cảm giác nghi ngờ chính mình và thiếu tự tin. Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng rằng tính trung thực có thể được coi là một đối lực của các trạng thái tâm thức tiêu cực và điều này được xác định bởi những cuộc nghiên cứu gần đây đã chứng minh khá hùng hồn rằng những người biết nhận thức/lượng giá đúng đắn và chính xác về bản thân họ là loại người hài lòng với chính mình, tự tin nhiều hơn so với những người có những hiểu biết không xác đáng về khả năng của họ.

Qua nhiều năm, tôi có dịp chứng kiến đức Đạt Lai Lạt Ma làm sáng tỏ ý tưởng rằng tự tin là do thành thực và thẳng thắn về khả năng của mình. Lần đầu tiên, khi nghe Ngài thản nhiên nói trước mặt đám đông thính giả “Tôi không biết” tôi đã rất đỗi ngạc nhiên vì trái hẳn với thói quen của các giảng viên đại học hay những người tự coi mình có thẩm quyền. Đức Đạt Lai Lạt Ma chấp nhận sự thiếu hiểu biết của mình không một chút ngượng ngập, không đưa ra những nhận xét cao siêu và không cố tỏ cho mọi người biết là mình thông thái. Ngài thường tỏ ra thích thú khi phải đối diện với một câu hỏi khó mà Ngài không có câu trả lời thích hợp hoặc dùng hình thức khôi hài để đối đáp. Vào một buổi chiều tại Tucson, khi bình giảng một đoạn có những lý luận rất phức tạp trong cuốn Hướng Dẫn Cách Thực Hành Bồ Tát Đạo của Shantideva, đức Đạt Lai Lạt Ma tỏ ra lúng túng, lẫn lộn rồi phá ra cười và nói: “Tôi rối trí quá, có lẽ chúng ta bỏ qua đoạn này đi. Đoạn kế tiếp là …”

Nghe thính giả cười thông cảm, đức Đạt Lai Lạt Ma cười lớn hơn và nói: “Trong những trường hợp như thế này, người ta thường nói đến một thành ngữ đặc trưng có nghĩa như sau: Cũng giống như một người già ăn uống, một người già với răng cỏ hom hem, chỉ ăn những thứ mềm, còn cái gì cứng thì để lại. Vậy chúng ta hãy để cái đoạn khó nuốt này ở lại đây vậy.” Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn cười vui vẻ và không một chút giao động trong niềm tự tin tối thượng của Ngài.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.