Người Tây Tạng Nghĩ Về Cái Chết: Người Chết Đi Về Đâu – Chương I

01.

 

DẪN NHẬP LUẬN VÃNG SANH

Tiến sĩ W. Y. Evans Wentz

Tập luận vãng sanh này, nguyên tác tiếng Tây Tạng có tên là Bardo Thődol. Ðây là một trong số rất ít những quyển sách nghiêm túc nghiên cứu về cái chết, về sự sống sau khi chết và về sự tái sanh. Sách này cũng trình bày một cách cô đọng các giáo lý chính yếu của Phật giáo Ðại thừa. Hơn thế nữa, nó không chỉ rất quan trọng về mặt tôn giáo, mà còn cả trong các lãnh vực triết học và lịch sử nữa.

Sách này đã từng được sử dụng như một trong những luận thuyết căn bản của thuyết Du-già, và nằm trong chương trình đào tạo cơ bản của Viện Ðại Học Phật giáo Nãlandã – một dạng Oxford của Ấn Ðộ xưa kia. Vì thế, đây có thể xem như là một trong những tác phẩm đáng chú ý nhất của phương Ðông mà người phương Tây từ trước đến nay chưa từng biết đến.[1]

Chủ đề của quyển sách có vẻ như khá tương tự với quyển “Sách dành cho người chết” của Ai Cập, với những mô tả và hướng dẫn bí ẩn xuyên qua thế giới bên ngoài của nhiều vương quốc thuộc ảo tưởng mà biên giới là sự sống và cái chết. Tuy nhiên, sự so sánh này không thể giúp đi đến một kết luận nào khác ngoài việc gợi ra một mối tương quan về văn hóa giữa hai khu vực.

Ðộc giả phương Tây cũng nên lưu ý một điều rằng, những lời giáo huấn trong sách này đã được truyền lại đến chúng ta qua một quá trình tiếp nối không hề gián đoạn của những vị thánh sư chứng ngộ xứ Tây Tạng, một vùng đất linh thiêng với nhiều đỉnh núi quanh năm tuyết phủ, được tin là có những thiên thần thường xuyên bảo vệ.

Sự độc đáo của quyển sách này là nó nhắm đến việc luận giải một cách hợp lýtác động của nghiệp quả trong giai đoạn giữa cái chết và sự tái sanh. Luận thuyết về sự tái sanh từ lâu đã được mặc nhiên chấp nhận như là sự thiết yếu cho sự sống của con người – vì tất nhiên không có ai thật lòng muốn nghĩ rằng sự chết là dấu chấm hết cho tất cả mọi chuyện. Nhưng vấn đề này lại hình như rất thường bị xem là phản đề của sự hợp lý, vì cho đến nay nó vẫn còn là một sự bí ẩn.

Tiến sĩ L. A. Waddell, sau một thời gian dài nghiên cứu đã phải thốt lên rằng:“Các vị Lạt-ma Tây Tạng, bằng vào giáo lý của đức Phật, đã có thể hé mở cho chúng ta thấy được ý nghĩa của nhiều sự việc người AÂu Tây hầu như không thể nào hiểu được.”

Một số các vị Lạt-ma uyên bác, như cố Lạt-ma Kazi Dawa Samdup đã giải thích rằng: “Trong giai đoạn ban đầu, Phật giáo đã có một quy tắc tượng trưng bí mật, được sử dụng trong việc truyền trao giáo pháp. Nó là chìa khóa để mở ra ý nghĩa sâu kín của những giáo lý bí ẩn, và được giữ gìn kỹ lưỡng trong các cộng đồng tôn giáo ở Ấn Ðộ, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản.”

Có lẽ cũng tương tự như thế, các nhà thần bí học phương Tây đã xem những loại chữ tượng hình của Ai Cập thuở xưa và của Mexico như là một hình thức tượng trưng phổ thông và công truyền của ngôn ngữ bí mật. Họ cũng nói rằng có một qui tắc tượng trưng đôi khi đã được Platon và những triết gia Hy Lạp khác dùng trong quan hệ của các khoa âm nhạc và toán học. Trongthế giới người Celtes, các thầy cúng đã lưu lại tất cả các giáo điều bí truyền của họ bằng cách tượng trưng. Việc sử dụng tỷ dụ trong các bài thuyết giảng của Chúa Jésus, của đức Phật và của các vị đại đạo sư khác cũng cho thấy cùng một khuynh hướng ấy. Và qua các tác phẩm ngụ ngôn của Esope, các phép mầu và những sự việc huyền diệu được diễn lại tại Nam AÂu, thì nhiều biểu tượng xưa kia của phương Ðông đã được đưa vào trong nền văn học tân tiến của phương Tây.

Ðiều không thể phủ nhận được là ngôn ngữ thông thường, với tất cả mọi hình thái của nó cũng không sao có thể diễn đạt được trọn vẹn các hệ thống tư tưởng lớn, các giáo lý siêu việt, hay thậm chí là ý nghĩa của những câu cách ngôn về đạo đức.

Rất nhiều những biểu tượng được sử dụng từ xa xưa ngày nay vẫn còn có thể nhìn thấy được, nhưng không ai hiểu được ý nghĩa ban đầu của chúng. Như những hình tượng cừu con, rồng, rắn, chim bồ câu… trên các bàn thờ; hoặc hình tam giác vây quanh con mắt nhìn phổ quát thường thấy ở hội bí mật FrancMacnnerie ở châu AÂu; hoặc biểu tượng linh thiêng  của con cá, lửa vĩnh cửu, hay hình ảnh mặt trời mọc trên điện thờ, các biểu tượng thuộc cấu trúc về hướng nhà thờ và thánh đường, cả đến thánh giá thình chữ thập… và các màu sắc, hình vẽ trên lễ phục của các cha cố và giáo hoàng… đều là những chứng tích thầm lặng còn sống sót của những biểu tượng vô tín ngưỡng xưa kia – chúng thật ra là một loại hình ngôn ngữ siêu ngôn ngữ – mà đến nay vẫn tồn tại trong các nhà thờ hiện đại thuộc Cơ Ðốc giáo. Nhưng ý nghĩa bí mật hàm chứa trong các biểu tượng được Cơ Ðốc hóaấy đã bị vất bỏ đi một cách vô ý thức. Các giáo sĩ không hiểu được ý nghĩa của chúng đã hội họp với nhau thành những hội nghị để diệt trừ  tà thuyết, trong khi thật ra chúng chỉ là những ý nghĩa có tính cách bí truyền.

Phật giáo Bắc tông thường sử dụng những biểu tượng rất sống động trong sự truyền pháp, đã phải chịu sự chỉ trích của Phật giáo Nam tông rằng họ tự cho mình là người giữ giáo lý bí truyền. Nhưng thực ra thì giáo lý bí truyền ấy đã được trực tiếp truyền lại từ đức Phật qua các thế hệ liên tục nối tiếp nhau, bằng vào những bậc thầy chứng ngộ, hiểu rõ được ý nghĩa bí truyền do đức Phật truyền dạy. Mặc dù Bắc tông khẳng định rằng chỉ có thể có một lối giải thích về các lời giáo huấn của đức Phật theo văn tự, nhưng thực tế thì ngay trong các kinh điểnPali cũng hàm chứa rất nhiều ngụ ngôn, ẩn dụ, mà một số trong đó đã được các vịLạt-ma xem như là sự xác nhận những ý nghĩa tượng trưng trong truyền thống bí truyền của riêng họ. Không phải là vô cớ khi các vị này nói rằng, họ có được cáichìa khóa đầu tiên để mở ra các ý nghĩa bí truyền của giáo lý do đức Phật truyền dạy.

Các vị Lạt-ma thừa nhận rằng ba tạng kinh điển là lời giảng thuyết của đức Phật đã được ghi chép bằng văn tự để làm giáo lý truyền dạy. Phật giáo Bắc tông, Phật giáo nguyên thủy[2] cũng tán thành như vậy. Nhưng các vị Lạt-ma nói thêm rằng, ba tạng kinh điển không chứa đựng tất caû những lời dạy của Phật; trong đó còn thiếu một số các lời dạy về pháp môn Du-già, mà vẫn được bí truyền cho đến ngày nay. Phật giáo Mật tông thừa nhận là đã được chính truyền theo phương thức truyền khẩu những giáo lý thuộc loại này.

Trong kinh tạng Pali có nó rằng, đức Phật không hề giữ lại bất cứ điều gì bí mật cả. Ðiều đó có nghĩa là, ngài không giấu bất cứ điều gì về giáo lý thiết yếu cần phải truyền dạy cho giáo hội Tăng già, nhằm có thể giúp cho một đệ tử của ngài có thể được chứng ngộ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những lời dạy của ngài đều phải được ghi chép bằng văn tự. Hay nói cách khác, người ta không phải đã ghi chép hết các lời dạy của ngài trong kinh điển.

Thực tế là chính đức Phật cũng không hề viết ra một lời dạy nào. Chỉ nhiều năm sau khi ngài tịch diệt, các đệ tử của ngài mới ghi chép những lời dạy của ngài thành kinh điển. Vô tình hay cố ý, có thể họ đã không ghi lại hết những gì mà ngài đã dạy cho họ. Hoặc nếu không phải là như vậy, thì hẳn có một số giáo lý của Phật đã không bao giờ được truyền dạy cho những người không thuộc giáo hộiTăng-già, theo như truyền thống mà đến nay các vị Lạt-ma vẫn còn theo đúng. Trong trường hợp đó, chúng ta phải thừa nhận là có một giáo lý bí truyền của Phật giáo không nằm trong kinh điển. Giáo lý bí truyền, nếu hiểu theo cách này, thì không thể xem là không hòa hợp với phần giáo lý công truyền trong kinh điển, mà phải là có một mối liên hệ tương quan với nhau, như toán học cao cấp có liên hệ với toán học giản dị vậy.

Quyển sách này, lần đầu tiên được công bố, là một trong những bằng chứng cụ thể cho lời tuyên bố của các vị Lạt-ma về việc có những giáo lý do chính đức Phật truyền dạy đã không được ghi chép, mà chỉ được truyền khẩu để bổ túc cho phần giáo lý được ghi trong kinh điển.

Trong quyển sách này, chúng ta thấy có những ý nghĩa bí ẩn được thể hiện qua sự tượng trưng bằng con số – số 49, bình phương của thánh số 7. Theo giáo lý đã có từ xưa của Ấn Ðộ giáo, một phần nào đó đã để lại ảnh hưởng trong Phật giáo, có 7 thế giới hay là 7 trình độ giả huyễn trong vòng sanh tử luân hồi, mỗi thế giới lại gồm có 7 khối cầu của một chuỗi hành tinh. Trên mỗi khối cầu có 7 vòng tiến hóa: 7 lần 7 thành 49 trạm dừng để sanh sống hoạt động; cũng như từ tinh trùng đến lúc thành thân người, thai nhi phải trải qua các hình thái của cấu trúc cơ thể mới đạt đến hình dạng cao nhất của loài có vú. Như vậy, trong tình trạng sau khi chết, thực trạng phôi thai của thế giới tâm lý là thần thức, hay dạng nguyên sơ nhất của ý thức, trước khi trở lại trong thế giới vật chất thô nặng, nhất thiết phải trải qua các trạng thái tâm lý thuần túy một cách có tương quan với thế giới vật chất. Nói một cách khác, trong hai tiến trình phôi thai tùy thuộc lẫn nhau, có liên quan với nhau – tức là vật lý và tâm lý – thì sự tiến hóa được thông suốt hay trở ngại đều có tương ứng với 49 thời kỳ chuyển tiếp mà thần thức phải trải qua.

Cũng giống như vậy, 49 ngày của thân trung ấm có thể tượng trưng cho 49 quyền năng bí mật của 7 nguyên âm. Trong thần thoại Ấn Ðộ, từ đó xuất phát nhiều cách tượng trưng cho thân trung ấm. Các nguyên âm ấy trở thành sự huyền diệu của lửa và 49 hình thái của lửa. Chúng cũng được thể hiện bằng dấu hiệu Svastika[3] trên 7 đầu rắn, tiêu biểu cho tính chất vĩnh cữu của sự huyền diệu trong Phật giáo Bắc tông, và sự huyền diệu này có nguồn gốc từ Ấn Ðộ giáo cổ xưa. Trong các bài viết về thuật luyện kim đã được giữ kín thì các dạng khác nhau của lửa chính là 7 trạng thái trải qua sau khi chết, hay là những trạng thái củathân trung ấm. Mỗi kinh nghiệm tượng trưng cho một lần trải qua trạng thái chuyển tiếp từ một trong 7 yếu tố riêng biệt của nguyên lý ý thức phức tạp. Như vậy, chúng tạo ra cho nguyên lý ý thức 49 trạng thái khác nhau được biểu thị bằng các dạng thức của lửa. Số 7 là một thánh số từ rất xa xưa của chủng tộcAryen và một số chủng tộc khác. Việc sử dụng nó trong những phát lộ của thánhJean cũng giải thích thêm về điều này, cũng như quan niệm về ngày thứ 7 đã được xem là ngày thánh. Trong thiên nhiên, số 7 quản trị các định kỳ, các hiện tượng của sự sống, cũng như các nhóm hóa chất, các âm và các màu trong vật lý học. Và chính giáo lý vần thân trung ấm đã có căn cứ một cách khoa học dựa trên số 49, hay là 7 lần 7.

Một điều nổi bật khác trong quyển sách này là những khái niệm về 5 yếu tố.[4]  Sự giải thích về 5 yếu tố này, một cách đáng kinh ngạc, lại rất gần với những hiểu biết hiện nay của khoa học phương Tây. Chúng ta có thể thấy được điều này trong lời giải thích sau đây của Lạt-ma Kazi Dawa Samdup:

“Vào thời kỳ đầu tiên của hành tinh chúng ta, chỉ  có một yếu tố chuyển biến, đó là lửa. Theo định luật của nghiệp tác động vào sự sanh diệt nơi tiểu vũ trụ, bụi mù của lửa bắt đầu tự xoay chuyển và trở thành một khối hình cầu nóng bỏng, gồm các nguyên tố chưa phân biệt, còn tất cả các yếu tố khác đều đang ở trong trạng thái phôi thai. Sự sống ban đầu được bao phủ hoàn toàn trong lửa, và nếu như có một chúng sanh nào đó hiện hữu vào thời kỳ này thì chúng sanh ấy phải có thân thể bằng lửa. (Những huyền thoại ở phương nam tin rằng người Salamandrescó thân bằng lửa). Vào thời kỳ tiến hóa thứ hai, khi yếu tố lửa đã có một hình dáng xác định thì yếu tố không khí tự tách rời khỏi lửa và bao quanh cái mầm hành tinh như một vỏ trứng bao quanh ruột trứng. Thân thể của mọi chúng sanh vào lúc ấy đều gồm có lửa và không khí. Vào thời kỳ tiến hóa thứ ba, sự chuyển động của yếu tố không khí làm biến đổi, giảm đi tính chất nóng bỏng của hành tinh, và yếu tố nước thoát ra khỏi không khí. Vào thời kỳ tiến hóa thứ tư, là thời kỳ hiện nay còn đang kéo dài, không khí và nước làm trung hòa hiệu năng của lửa, nên lửa tạo ra yếu tố đất bao quanh nó.”

Nghiên cứu thần thoại cổ xưa của Ấn Ðộ cũng thấy có những lời giải thích tương tự trong việc đánh sửa thành bơ: sữa trong thần thoại là bụi mù của lửa và từ đó thoát ra bơ và đất. Ðất được thành lập xong, các vị thiên thần tự nuôi sống bằng đất nên hiện thân thô nặng trên hành tinh này và trở thành tổ tiên ban sơ của loài người.

Vào 4 ngày đầu tiên sau khi chết, 4 yếu tố đất, nước, gió, lửa được biểu hiện trong hình thức ban sơ của chúng đối với người chết. Còn một yếu tố thứ năm không hiện ra là yếu tố không, yếu tố bao quát tất cả, được thể hiện trong hình thái ban đầu của nó, với biểu tượng như là ánh sáng màu xanh lục của Thành sở tác trí. Trong sách giải thích rằng sở dĩ yếu tố này không hiện ra là bởi vì tâm thức của người chết chưa đạt đến sự phát triển hoàn toàn.[5] Yếu tố thứ năm bao quát này được nhân cách hóa thành đức Phật Ðại Nhật.

Ðể diễn tả quan niệm của các vị Lạt-ma theo danh từ tâm lý học của phương Tây thì yếu tố này có thể gọi là tiềm thức. Tiềm thức là tâm thức siêu việt, cao hơn ý thức bình thường và chưa được phát triển đầy đủ, nó là hạt giống tiềm tàng của năng lực giác ngộ, và sẵn sàng trở thành ý thức hoạt động trong thời gian thích hợp. Sự ghi nhận trong ký ức tất cả các tiền kiếp, tất cả những trạng huống đã qua của cuộc sống luân hồi, đều ẩn tàng trong tiềm thức,[6] theo như lời dạy của chính đức Phật. Một khi tiềm thức có đủ điều kiện để bừng dậy trở thành hoạt động, các hạt giống hàm chứa trong nó sẽ có thể được nhớ lại qua tất cả các tiền kiếp. Khi đạt đến sự giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh diệt của các yếu tố, thể nghiệm được tính cách không thực, hư huyễn của kiếp sống luân hồi, con người sẽ tự mình đạt đến trạng thái này.

Mục đích tu tập của mọi trường phái Du-già ở Ấn Ðộ hay Tây Tạng, hoặc theo như được truyền dạy trong sách này, là cố gắng đạt được trạng thái giải thoát đó.

Trong thân thể con người có đủ sự hiện diện của bốn yếu tố cấu thành thế giới vật chất, đó là các yếu tố: lửa, gió, nước và đất. Những yếu tố này không phải bao giờ cũng hoàn toàn hòa hợp với nhau. Vì thế, sự tồn tại và hoạt động của chúng được đặt dưới sự chi phối tổng quát của tâm thức con người. Nếu là vị chỉ huy tài giỏi, có đầy đủ ý thức siêu việt của một vị tu tập Du-già đắc đạo, hay một bậc thánh triết, thì các yếu tố trực thuộc này sẽ thường xuyên bộc lộ bản chất thực sự của chúng, và như vậy là đặt trong tay vị chỉ huy chiếc quyền trượng – được tượng trưng bằng chày Kim Cang – của sự chi phối tổng quát trên thế giới vật chất. Ðược như vậy, con người thật sự là vị chúa tể của thiên nhiên, vì theo sự giải thích của thần quyền, chính ở trạng thái này con người trở thành một đấng toàn năng, một vị Chuyển luân thánh vương, Thượng đế hay Ðấng sáng tạo.

Quyển sách này cũng hàm chứa các yếu tố cơ bản của Phật giáo Ðại thừa, với hình thức cốt lõi nhất của chúng. Có thể tạm phác họa như sau :

1.      Về tánh Không: Trong tất cả các hệ thống giáo lý Du-già của Tây Tạng thì sự thể nghiệm được tánh Không là mục tiêu rất lớn. Bởi vì, sự thể nghiệm ấy là sự đạt đến pháp thân tuyệt đối. Ðó là trạng thái uyên nguyên không tạo tác của tâmbồ –đề xuất thế, hay là Phật tánh.

2.      Về ba thân Phật : Trong giáo lý về ba thân Phật, Pháp thân là thân siêu việt nhất của tất cả chư Phật và các chúng sanh đã được giác ngộ hoàn toàn. Còn hai thân khác là Báo thân, thân có đầy đủ công năng, và Hóa thân, thân mà tất cả chúng sanh đều có thể nhận biết được bằng mắt thường.

Pháp thân chỉ có thể được mô tả bằng phương thức tượng trưng, bởi vì tất cả ngôn ngữ và quan niệm của người đời đều không thể diễn tả được trọn vẹn. Hình ảnh tượng trưng đó là một đại dương mênh mông không giới hạn, lặng yên tịch tĩnh, không có một đợt sóng nào; từ đó bốc lên những mù sương, mây và cầu vồng, tượng trưng cho Báo thân; mây và sương mù lại được soi sáng bằng sự chiếu tỏa của cầu vồng, nên ngưng tụ lại và rơi xuống thành mưa, tượng trưng cho Hóa thân.

Pháp thân là bồ-đề uyên nguyên không hình tượng, là sự thực chứng, không có bất cứ một tì vết hay sự tối tăm che lấp nào. Trong pháp thân có bản thể của vũ trụ, bao hàm cả sanh tử và Niết-bàn. Hai pháp này – sanh tử và Niết-bàn – với dạng biểu hiện thông thường vẫn được xemnhư là hai cực đối nhau của ý thức, nhưng khi được phân tích đến mức tột cùng thì chúng là đồng nhất.

Pháp thân là trí tuệ bồ-đề, sáng suốt, vô ngại, thường tồn, bất biến.

Báo thân là sự hiển bày thiện nghiệp của chư Phật, như các đức Phật đang hiện thân giáo hóa ở các cõi Tịnh độ của các ngài.

Hóa thân, hay cũng gọi là Ứng thân, là thân Phật do lòn g từ bi muốn cứu độ chúng sanh mà thị hiện trong các cõi thế giới uế trược, nhiều tội lỗi, như PhậtThích-ca Mâu-ni đản sanh trên trái đất này.

Như vậy, thực tánh không tạo tác, không hình tướng, thường tồn không biến đổi là Pháp thân.

Sự hiển lộ tất cả các thuộc tính hoàn hảo cũa pháp thân trong một thân thể mà chúng sanh có thể nhận biết được là Báo thân.

Sự thể hiện của pháp thân trong cỏi thế giới này thành nhiều thân khác nhau với đầy đủ các tính chất phàm tục của nhân loại, nhằm mục đích giáo hóa, cứu độ cho chúng sanh, đó là Hóa thân.

Pháp thân được tượng trưng bằng hình ảnh đức Phật Ðại Nhật (Vairocana). Báo thân được tượng trưng bằng đức Phật A-di-đà (Amita) với ánh sáng vô lượng chiếu suốt khắp thế giới. Và sự giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bànày được xem như là biểu tượng rõ nét nhất của Hóa thân.

Trong Phật giáo Tây Tạng, Hóa thân còn được kết hợp với ngài Liên Hoa Sanh (Padmasambhãva) là vị thầy đầu tiên đã giảng dạy giáo lý về thân trung ấm ở Tây Tạng. Ngài được những người tin vào giáo lý này tôn xưng là Ðại giáo chủ.

Như vậy, giáo lý về Ba thân Phật là một nét đặc trưng của Phật giáo Bắc tông. Trong Phật giáo Nam tông, chúng ta thấy có ba khái niệm tương ứng là Phật, Pháp, Tăng. Về mặt giáo lý, hẳn phải có sự tương quan nhất định giữa hai hệ thống đó.

Lạt-ma Kazi Dawa Samdup cho rằng giáo lý Ba thân đã lưu truyền qua một sự tiếp nối không đứt đoạn của chư vị tổ sư được truyền thụ, từ Ấn Ðộ sang Tây Tạng. Chuỗi truyền thừa ấy đã khởi sự từ đức Phật và được tiếp nối không dứt cho đến ngày nay. Vị Lạt-ma này cũng cho rằng, chính khi đức Phật truyền dạy giáo lý ấy là ngài đã tiếp nhận từ chư Phật xưa kia. Vì giáo lý này chỉ được truyền khẩu từ bậc thầy này sang bậc thầy khác mà không bao giờ được ghi chép ra. Chỉ cho đến thời gian tương đối gần đây, khi Phật giáo đã suy yếu đi, không có bậc thầy nào sống còn để truyền dạy nó theo phương thức xưa kia nữa.

Các học giả phương Tây thường quan niệm rằng: “Nếu không thể tìm được bất cứ dấu vết nào cũa một văn bản trước đây nói về một giáo lý, thì giáo lý ấy tất nhiên là trước đó chưa từng hiện hữu.” Với tư cách là một người đã được truyền thụ giáo lý bí truyền, Lạt-ma Kazi Dawa Samdup cho rằng quan niệm ấy thật đáng buồn cười.

Giáo lý Ba thân được xem như sự chỉ dạy về con đường của các bậc đạo sư đi từ thưởng đẳng đến hạ đẳng, từ Niết-bàn đến sanh tử; và sự tiến thủ từ hạ đẳng đến thượng đẳng, từ sanh tử đến Niết-bàn. Trong luận vãng sanh, điều này được tượng trưng bằng 5 đức Thiền-na Phật, mỗi vị nhân cách hóa một thuộc tính thánh thiện phổ quát. Ẩn kín trong 5 đức Thiền-na Phật là con đường thánh thiện dẫn đến sự hòa hợp trong Pháp thân nơi thực tánh Phật, dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, tức là về tinh thần được giải thoát khỏi mọi ham muốn.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.