Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

HẠNH PHÚC XX

Majjapānā ca saññamo
Thu thúc sự uống rượu

Trong 38 điều Hạnh phúc, có 3 điều Đức Thế Tôn cấm ngặt là:

– Anavajjakamma: cấm làm việc gì có tội lỗi.

– Papavirati: cấm không cho làm tội lỗi, lánh xa tội.

– Majjavirati: cấm uống chất say.

Theo 3 câu trên quí vị hãy suy nghĩ xem có câu nào lẫn câu nào hay không?

Hai điều trên đây đều nói về tội, câu thứ nhất nói về làm việc có tội và câu thứ hai là lánh xa tội khác nhau như thế nào? Tại sao lại chia ra làm hai điều? Vì tránh xa tội lỗi thì đâu có làm tội lỗi. Đã có giải rồi nên nơi đây không phải giải thêm nhiều, chỉ giải tóm tắt hầu quí vị thôi.

Pháp Hạnh phúc thứ XVIII ngụ ý dạy không nên làm sai với giới luật của đời, với phong tục của một nhóm người hay với xã hội. Còn Hạnh phúc thứ XIX dạy lánh xa tội lỗi, đừng hành sai với điều của Đức Phật dạy, nghĩa là không để tâm phải nhơ đục. Hai Hạnh phúc ấy không giống nhau, nhưng ta thấy hình như giống nhau.

Câu Hạnh phúc thứ XX này cấm uống chất say. Tiếng Saññama có nghĩa là thu thúc, ý khuyên cẩn thận trong sự không uống rượu.

Ở đây, Đức Phật không dạy xa lánh mà dạy nên thận trọng hay cẩn thận hoặc thu thúc. Ngài thấy rằng con người phần đông vì vui thích, nên ưa uống rượu. Ngài mới dạy hãy thận trọng, không nên để sự an vui thích thống trị, và nên thu thúc, ý nói không nên để tâm chạy theo dục vọng tội lỗi trong nhất thời mà đem chất say tai hại ấy vào mình.

Chẳng phải chỉ có Phật giáo cấm uống rượu mà thôi, các tôn giáo khác như Hồi giáo cũng cấm uống rượu.

Đức Phật trông thấy cái hại của sự uống rượu là to lớn, nên Ngài cấm nhặt, dạy thành giới điều trong ngũ giới, bát quan trai giới, thập giới, thập thiện và cụ túc giới.

Sở dĩ ngài cấm như vậy, vì Ngài thấy chúng sanh đã dễ duôi mà còn đem thêm vào tâm sự dễ duôi, là chất say sưa nữa, e tội lỗi càng chồng thêm, bởi uống rượu thuộc vào tội dễ duôi.

Tóm lại, câu Phật dạy thu thúc tâm không cho thêm vào những chất say khác vì chúng sanh đã say và mê trong tài, tình, danh, lợi lắm rồi. Một bệnh ấy mà chữa còn chưa hết, mà đem theo bệnh ở bên ngoài vào, thì không biết khó chữa tới đâu nữa.

Uống rượu và uống những chất say khác đã phí tiền của để mua rượu, còn phí thì giờ quí báu và gây nhiều tai hại khác nữa.

Nghĩa là khi say rồi không làm việc được, chỉ ngủ thôi, như thế những công việc làm bị đình trệ. Có người nói rằng: tôi uống rượu vừa phải để ngủ. Những người này không thấy thì giờ là vàng bạc, những thì giờ làm cho ngủ vì rượu để xem sách, xem kinh, quan sát việc làm của ta trong ngày, có điều nào sai lầm ta diệt bỏ, mà dù uống để ngủ cũng không chạy khỏi mất tiền.

Thêm vào đó, người say sưa:

– Chửi mắng vợ con, làm cho gia đình vì đó mà kém vui và lắm khi còn gây với hàng xóm.

– Không còn biết hổ thẹn, cứ la lối om sòm theo dọc đường, làm mất giá trị của con người.

– Không ai dám thuê, hay giao phó một công việc gì quan trọng.

– Không thể nào tạo được hạnh phúc cho đời mình và làm cho cơ sở của mình hư hại.

– Phanh phui chuyện kín đáo của mình.

– Rượu sinh nhiều bệnh khó trị.

– Trí óc lu mờ, mất cả sự khôn ngoan. Đây là cái hại trong kiếp hiện tại, về kiếp sau, nghiệp còn dư sót, sanh lại thành người tối tăm, học không thuộc, thiếu trí nhớ.

Đức Thế Tôn dạy trong bài kinh Sinalaka rằng: Này Gahapati, cái hại của sự uống rươu có 6 điều là:

1. Dhanājāni: bị tốn tiền của.

2. Kalahappavaddhāni: hằng có sự gây gổ (trong gia đình hay ngoài xã hội).

3. Roganam ayatanam: là nguyên nhân sanh ra nhiều bệnh.

4. Akitti sanjani: làm mất danh dự, giá trị.

5. Hirikop an aniddamsanī: không còn biết hổ thẹn.

6. Pannaya dubbalīkaranī: làm cho trí nhớ và trí tuệ càng ngày càng lu mờ.

Vì rượu gây tai hại như vậy, nên chẳng những Đức Phật cấm uống rượu mà cũng cấm bán rượu và bố thí rượu nữa.

Trong bộ Chú giải của kinh Hạnh phúc có giải rằng: người không uống rượu là người biết thu thúc thân, khẩu, ý của mình, nghĩa là mình thống trị được thân, khẩu ý của mình. Người không uống rượu là người dễ nuôi, mà ai ai cũng ưa mến, giúp đỡ, người không chạy theo phiền não, người cố gắng mài giũa phiền não trong lòng mình, ví như nngười thợ rèn đốt sắt đỏ và đập sắt cho ra hết rỉ sét. Người không uống rượu là người thích làm phước thiện, không để ý đến tội lỗi, người giữ được lễ phép đúng theo phong tục hay đúng theo giáo lý của tôn giáo mà người ấy đang giữ. Người không uống rượu là người trì giới được trong sạch, người không uống rượu là công dân lương thiện. Tâm người không uống rượu hằng không phóng túng, thu thúc được dễ dàng.

Có ba hạng người không uống rượu khác nhau:

– Người không uống rượu bậc hạ là người có thọ trì ngũ giới, là Phật tử chân chánh, không phải là người Phật tử cuỡng danh để gọi là người Phật tử chân chánh đáng ngợi khen.

– Người không uống rượu bậc trung là người có thọ trì bát quan trai giới, họ có thiền định và cố hành để tâm được thanh tịnh.

– Người không uống rượu bậc thượng là người có thọ trì ngũ giới, hay bát quan trai giới, hoặc cụ túc giới, ngoài ra, có học và hành minh sát tuệ, gắng hành để mau đi đến nơi kết quả. Người hành tới bậc thượng thừa này là người trừ được cái say của tài, tình, danh, lợi, và đắc quả Niết Bàn.

Tóm lại, uống rượu chẳng luận theo mặt đạo đức hay về đời đều là tai hại. Uống rượu gây khoái lạc trong khoảnh khắc cho người uống, nhưng là thứ khoái lạc trong sự đau khổ, có thể gây hậu hoạn khôn lường.

Vì vậy tất cả các tôn giáo đều dạy phải thu thúc sự uống rượu.

Không uống rượu thì được hạnh phúc như:

1. Có trí nhớ, có tên tuổi tốt, người kính nể.

2. Không si mê, không say sưa, không dễ duôi, không phạm giới.

3. Không có sự kinh sợ, không có oan trái, ai cũng thương mến.

4. Có được sự nương nhờ cao quí.

5. Có để dành lộ phí để đi về cõi trời và Niết Bàn.

6. Có thất bửu nhà Phật trong tâm.

7. Sẽ hưởng ba điều hạnh phúc là người, trời, và Niết Bàn.

8. Được gọi là hành theo Pháp.

9. Đem mình ra khỏi khổ luân hồi.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.