Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

HẠNH PHÚC XXI

Appamādo ca dhammesu
Sự không dễ duôi trong các pháp

Hạnh phúc XXI này, tôi xin chia ra làm ba phần để quí vị dễ hiểu:

– Trạng thái của sự dễ duôi.

– Thế nào gọi là sự không dễ duôi trong các pháp?

– Phương pháp hành.

1. Trạng thái của sự dễ duôi: Phạn ngữ Appamāda nghĩa là không dễ duôi, ngụ ý nói là tâm không xa trí nhớ. Ta cũng có thể nói không dễ duôi là trạng thái của tâm không xa trí nhớ. Giải nghĩa như trên đối với chư sư có học Phạn ngữ thì thật rành, nhưng đối với quí vị tại gia cư sĩ hay người tham cứu Phật giáo cũng thấy khó hiểu. Vậy nơi đây tôi xin nói cho dễ hiểu hơn, thì sự không dễ duôi là trạng thái của tâm có trí nhớ kiểm soát, tâm có trí nhớ, hay người có trí nhớ (người đây thế cho tâm).

Phạn ngữ Citta nghĩa là tâm. Tâm là vật vô hình, có chức vụ theo dõi và quan sát các đề mục như sắc, thinh, hương, vị, xúc. Sati là trí nhớ và một pháp vô hình hằng đi sát theo tâm để nhắc nhở tâm và cũng kềm chế tâm, không để tâm quên mình. Lẽ cố nhiên khi tâm không có trí nhớ kiểm soát, tâm sẽ phóng túng, nghĩa là tâm suy nghĩ chuyện này sang chuyện nọ không bờ bến và khi đang nói chuyện, nếu không trí nhớ kiểm soát thì chắc chắn nói chuyện ngoài đề. Tâm ấy không dùng vào đâu được vì thiếu trí nhớ.

Nói về tâm là nói đến pháp vô hình. Vậy quí vị muốn biết nên học tham thiền, khi quí vị tham thiền càng muốn làm cho tâm yên tịnh chừng nào, quí vị sẽ thấy nó vọng động đến độ nào.

Người không dễ duôi có những đặc ân là:

– Sankeyya sankītabbhani: cẩn thận trong việc nên cẩn thận.

– Rakkheyyanagatam bhayam: cẩn thận và giữ không cho có sự kinh sợ xảy ra trong ngày vị lai.

Cẩn thận có nghĩa là quan sát kỹ càng không cho sơ thất.

2. Không dễ duôi trong các pháp: Tiếng Dhamma ta dịch ra là Pháp, tựu trung có nhiều ý nghĩa khác nhau.

Dhamma là tiếng thông dụng nhất trong Phật giáo, thường kèm sau hồng danh của Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, và chỉ định những giáo điều của Phật như Giới, Định, Tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại v.v…

Pháp bảo là lời giảng dạy của Đức Phật, là pháp bất di bất diệt, là pháp giải thoát không có một ai phản đối hay chỉ trích được. Tại sao? Vì pháp ấy là sự thật hiển nhiên, Đức Phật tự giác ngộ sự thật ấy và đem sự thật ấy dạy chúng sanh, mà không cho là tuyệt đối; trái lại, Ngài dạy hãy dùng trí tuệ để suy nghĩ quan sát sự thật ấy. Chúng ta có thể tin chắc nơi pháp của Phật là chân chính, là con đường đi đến nơi vô sanh bất diệt bởi các điều sau đây:

Đức Phật giáo hóa với sự đắc tuệ quả của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Ngài. Ngài dạy đời với chánh pháp của Ngài đã đắc, chớ không phải do nơi một uy quyền nào bắt buộc chúng sanh phải nghe theo, và cũng không mua chuộc chúng sanh bằng nguyên nhân gì, mà trái lại, Ngài cấm các nhà sư không nên dùng bùa phép, làm thầy thuốc, hay được của cúng dường nơi này đem cho nơi khác, hoặc đem của Tăng cho người tin tưởng theo mình.

Ngài để cho người nghe có quyền chất vấn Ngài hay về nhà suy nghĩ lại, rồi sẽ tin sau. Ngoài ra, Ngài còn khuyến khích Phật tử dùng trí tuệ để tham cứu Pháp bảo và thường hội nhau lại để giải những pháp mà họ còn nghi ngờ.

Ngài thuyết pháp độ chúng sanh, không phân giai cấp, hầu như các vua chúa trong thời kỳ ấy xin làm đệ tử tại gia và cũng có nhiều vị giáo chủ của một tôn giáo, tự giải tán tôn giáo của mình lập ra, và theo làm đệ tử của Ngài như ba anh em ông Jālila nhờ thần lửa v.v… Trong khi ấy có biết bao là người trí thức theo Ngài. Nhưng những thái độ ấy Ngài chẳng xem là làm danh dự cho Ngài.

Hiện nay đã hơn 25 thế kỷ rồi mà lời giảng dạy của Ngài vẫn còn sáng chói và biết bao nhiêu người vâng giữ hành theo, chứng tỏ rằng Phật pháp là sự chân thật vĩnh cữu đem người đến nơi giải thoát.

Dhamma còn có nghĩa là gìn giữ, ý nói người nào thực hành theo Dhamma (Pháp) thì Dhamma ấy gìn giữ không để cho người ấy sanh vào nơi khổ cảnh.

Vì những lẽ kể trên, nên Hạnh phúc XXI này dạy rằng: Không nên dễ duôi trong các pháp, nghĩa là không nên dễ duôi trong lời Phật dạy, nghĩa là không nên dễ duôi mà không hành theo pháp của Phật.

Dễ duôi có nghĩa là không làm tròn phận sự, hoặc lừa đảo kiếm cách không làm phận sự. Có người tự dối mình hay lừa mình rằng tôi chưa già nên chưa phải lúc tu. Họ đã quên rằng trong các nghĩa địa, có biết bao nhiêu mồ của những người còn trẻ hơn nhiều, và quên rằng của cải nhiều, con khôn, vợ ngoan, bạn nhiều, nhưng khi tử thần đến thì không đem của cải đi đổi được, vợ con bạn bè không giúp mình chống với tử thần được. Nghĩ mình còn trẻ, chưa già, chưa chịu làm lành, đó là trạng thái của sự dễ duôi.

Chú giải có dạy rằng sự mến tiếc trần tục gọi là dễ duôi. Có lời Phật dạy trong bộ Khuddaka-vibhanga rằng hai pháp dễ duôi và không dễ duôi ấy như thế nào? Sự bỏ qua những việc làm, sự để tâm phóng túng ngũ trần làm cho thân, khẩu, ý nhơ đục gọi là dễ duôi. Hơn nữa, không chú tâm làm việc và sự không tiếp tục làm mãi mãi, sự làm bị gián đoạn, sự lười biếng, làm một cách miễn cưỡng, bỏ dỡ việc đang làm, không sốt sắng, không quan tâm đến những việc làm, đều gọi là dễ duôi. Sự không cố tâm, sự trụy lạc trong trần tục như thế, Như Lai gọi là dễ duôi.

Bài kinh này còn dạy rằng sự không đầy đủ trí nhớ để kiểm soát tâm phóng túng, lung lạc theo tài, tình, danh, lợi, gọi là dễ duôi.

Hai pháp dễ duôi và không dễ duôi có quả báo khác nhau, vì dễ duôi nên sanh ra tội lỗi, không dễ duôi là nhân sanh phước thiện. Vì vậy nên Đức Phật có dạy trong Chattavagga ở phần Ekanipatta Anguttaranikāya rằng “Này các thầy Tỳ khưu, Như Lai suy nghĩ không thấy pháp nào là nguyên nhân làm cho các pháp lành đã có rồi, phải bị tiêu diệt, bằng pháp dễ duôi. Này các thầy Tỳ khưu, vì một người dễ duôi thì tất cả các pháp ác chưa sanh cũng phát sanh và các pháp thiện đã có, lại từ từ tiêu diệt”.

Rồi ngài dạy thêm rằng: “Này các thầy Tỳ khưu, Như Lai không thấy một pháp nào là nguyên nhân sanh các thiện pháp, và là nguyên nhân làm cho các thiện pháp chưa phát sanh được phát sanh và lại là nguyên nhân tiêu diệt các ác pháp, ngăn ngừa các ác pháp bằng pháp không dễ duôi. Này các thầy Tỳ khưu, một người không dễ duôi thì các thiện pháp chưa sanh sẽ sanh, và các ác pháp đã có rồi sẽ bị tiêu diệt”.

Đức Phật có dạy trong Pháp Cú kinh, đoạn Appamadavagga, và dạy thêm về dễ duôi trong tích của bà hoàng hậuSamavati rằng:

Appamādo amatam padam

Pamato maccuno podam

Appamatta na myan tiye

Pamatta yatha mata

Nghĩa là sự không dễ duôi là con đường đi đến chỗ không chết (bất tử). Sự dễ duôi là con đường đi đến chỗ chết. Những người không dễ duôi gọi là không chết. Người dễ duôi, mặc dù sống cũng như chết. Ý nói rằng sự không dễ duôi không làm tội lỗi và diệt trừ phiền não là con đường đi đến Niết Bàn, là nơi vô sanh bất diệt.

Còn người dễ duôi cứ làm nô lệ cho phiền não, nghĩa là chạy theo ngũ trần lục dục.

3. Phương pháp hành: Trong bộ kinh Angut-taranikāya, Đức Phật có dạy 4 phương pháp hành theo không dễ duôi:

a) Không nên dễ duôi trong sự diệt trừ sự ác do nơi thân, và không nên dễ duôi không làm việc làm do thân (làm việc lành do thân là bố thí).

b) Không dễ duôi trong sự diệt bỏ ác khẩu, và cũng không nên dễ duôi về sự làm lành do khẩu (lời khuyên người tu hành).

c) Không dễ duôi trong sự diệt bỏ ác tâm, và không nên dễ duôi về sự sửa trị tâm cho thanh tịnh.

d) Không dễ duôi trong sự diệt bỏ tà kiến, và không nên dễ duôi trong sự làm cho tâm mình trở nên chánh kiến.

Người không dễ duôi được những hạnh phúc là:

1. Đại phước.

2. Bất tử (như đã có giải rồi).

3. Ngừa được ác đạo,

4. Xa tất cả các điều khổ.

5. Hưởng an vui trong thiện pháp,

6. Đi đến nơi thiện.

7. Được hưởng an vui,

8. Tự mình thức tỉnh lấy mình,

9. Lòng được thanh thản.

10. Diệt trừ được các ác pháp.

11. Không lẫn lộn với các pháp ác.

12. Gọi là người hộ trì Phật pháp.

13. Được nghe lời chỉ dạy của các bậc thánh nhân.

14. Là người Phật tử chân chánh.

15. Là người có giới đức trong sạch.

16. Sau khi chết được sanh về nơi nhàn cảnh.

Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)

http://www.budsas.org/uni/u-38hanhphuc

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.