Cuộc Đời Đức Phật

II/ CUỘC ĐỜI THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA:

Sự ra đời của Đức Phật đã đáp ứng được nguyện vọng khao khát của dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của Ngài là vầng trăng sáng soi rọi khắp hang cùng ngỏ hẽm bóng đêm, như ánh mặt trời xuất hiện xua đuổi bóng đêm giai cấp xiềng xích nhân thế.

Mặc dầu là một Thái tử thông minh xuất chúng, có mộ đời sống sung mãn vật chất, quyền uy, bên cạnh tình yêu thương phụ-mẫu-tửrộng lớn, âu yếm của người vợ sắc đẹp nghiêng trời Gia Du Đà La, với sự chăm sóc chu toàn ngày đêm của hàng trăm cung tần mỹ nữ, bên tất cả thú vui giữa cuộcđời, với tiếng khóc của con thơ La Hầu La. Thế mà, Thái tử Tất Đạt Đa vẫn canh cánh trong lòng một nỗi buồn man mác muôn thuở tựa như chẳng ai hiểu nỗi tâm trạng của Ngài. Nỗi buồn của một xã hội đầy đói khác, bất công ư ? Nổi buồn vì sựmong muốn của Ngài không được tọai nguyện ư ? Chẳng phải!

Nỗi buồn ấy, chính là nỗi đau khổ triền miên của kiếp người, dưới con mắt của bậc đại trí, một lớp vỏ bọc vật chất, thú vui tạm bợ, không phải là niềm hạnh phúc chân chánh của kiếp người, những thứ ấyđã và đang được xây dựng bởi ước muốn và dục vọng, bảo bọc bởi bản ngã, tô điểm trên nền tảng tà kiến, của trăm thứ tư tưởng trong xã hội hiện tại. Một xã hội mà trong đó giá trị con người bị đánh mất (sự phân chia giai cấp tàn khốc) để rồi con người sẽ nhận lãnh cái khỗ lớn lao từ khi Sanh ra cho đến khi Già, Bệnh rồi Chết. Thái tử đã thấy rằng, trong mỗi con người không có cao thấp, sang hèn trong khi máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn, con người không phải từ nơi giai cấp sanh ra, và được ân sủng bởi một đấng tối cao nào cả. Hạnh phúc hay đau khổ là do từ mỗi nơi tự thân con người, mỗi con người cần phải có và hiểu được đâu là hạnh phúc chân chánh và đâu là sự tạm bợ của nó, và tất cả những suy nghĩ này,đã khiến Thái tử vất bỏ tất cả những thứ mong manh đang có được, như bỏ chiếc dép ra khỏi chân một cách nhẹ nhàng. Đi tìm con đường thoát khỏi nổi khổ sinh tửcho chúng sanh.

B/ Thái Tử Xuất gia: Vào ngày mùng tám tháng hai âm lịch, khi bốn bề đều vùi trong giấc ngủ. Cái nhìn cuối cùng đến với vợ đẹp con ngoan chính là sự chia tay mãi mãi với niềm hạnh phúc giả tạo, hoan lạc của trần thế. Thái tử Tất Đạt Đa cùng người hầu cận của mình lặng lẽ vượt thành, bỏ lại sau lưng tất cả ngai vàng điện ngọc, để trở thành kẻ không nhà lang thang mãi trong rừng sâu, xuất gia thành Sa môn khổ hạnh.

Đây cũng chính là những tháng ngày đau thương nhất của hoàng tộc, và đó chính là những ngày tháng Sa môn Tất Đạt Đa trải qua nhiều phen thử thách, với sự hoang vu của núi rừng, với những lời chỉ dạy của các bậc thầy được xem là nỗi tiếng đắc đạo lúc bấy giờ. Lại một lần nữa, Tất ĐạtĐa kẻ không nhà bỏ lại sau lưng tất cả những kinh nghiệm đã học được từ những vị ấy với lòng tri ân vô hạn, để một mình tìm cho mình một lối thoát. Những gì Ngài đã học được từ sách vở, Thầy giáo, những kinh nghiệm tu chứng nhiều năm trong rừng thẳm của các Đạo sư, Tất Đạt Đa đều đem thử nghiệm, với sáu năm khổhạnh, có những lúc bụng chỉ có một hột mè, một hột gạo, hoặc chỉ là một hớp nước,đã có lúc Ngài kiệt sức, ngã qụy, thân thể chỉ con da bọc xương. Để rồi nhà khổhạnh Tất Đạt Đa bừng tỉnh rằng đấy chỉ là cực đoan, giết hại thân thể, hình phạt tinh thần, không có lợi ích.

Bát sữa của cô lâm nữ Tu Xà Đề dâng cúng cho Ngài chính là quyết định nhận lãnh từ sự nhận thức cao cả. Không thểtu hành trong một thân thể yếu đuối, ép xác, và sẽ không có tinh thần minh mẫn trong tấm thân bạc nhược. Cũng thế, với một đời sống sung mãn cũng không thể là con đường tốt cho ý chí vươn lên. Con đường trung đạo trong tư duy của Cồ Đàm mởra. Và lời đại nguyện dũng mãnh: “Dầu xương tan thịt nát, nếu ta chưa tìm ra con đường để cứu giúp chúng sanh ra khỏi bể khổ sanh tử thì Ta không rời chổnày” bên bờ sông Ni Liên Thuyền. Suốt 49 ngày nhập định tham thiền, một đêm trăng khuyết, ánh trăng vừa ló dạng Thái Tử Tất Đạt Đa đã trở thành Đấng ThếTôn Vô Thượng.

C/ Thái Tử Thành Đạo: Trong bóng đêm tịch mịch, ngày mùng 08 tháng 02 vào canh 2 đức Thế tôn đã chứng quả Túc mạng Minh, hiểu rõ được nhiều kiếp trước của mình. Sang canh 3 Ngài chứng được Thiên nhãn minh nhận thức rõ nguồn gốc của khổ đau hiện tại. Sự bừng ngộ của Ngài như vầng trăng bất diệt đi ngang qua dòng sinh diệt. Trí tuệ của sự giác ngộ là kết tinh của vô lượng kiếp trầm mình trong thế giới sinh diệt nhưng chưa hề biến diệt. Sựgiác ngộ của Ngài đánh dấu cho một thế giới khác, những thế giới đã đổ nát bây giờ được vực dậy và tăng thêm sức sống. Sự thành đạo của Ngài không những đã làm chấn động tâm thức của loài người mà hàng chư Thiên ở nhiều cảnh giới khácđều chấn động. Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành bậc Ứng Cúng – Chánh Biến Tri -Minh Hạnh Túc – Thiện Thệ – Thế Gian Giải – Vô Thượng Sĩ – Điều Ngự Trượng Phu- Thiên Nhơn Sư – Phật – Thế Tôn.

III/ THỜI KỲ ĐỨC PHẬT TRUYỀN ĐẠO:

Đức Phật đã nhiều lần dự định nhập Niết bàn, qua nhiều lần thưa thỉnh của Đế Thích, Ngài quyết định rống pháp âm vi diệu, tựa như tiếng rống của loài chúa sơn lâm làm khiếp sợ cả vùng núi rừng thâm thẳm, cũng thế lời pháp trong sáng thiêu đốt cả núi rừng vô minh.

A/ Đức Phật truyền đạo:

Dưới cội Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thuyền, Đức Phật không vội vã rao giảng chánh pháp cao minh – khó hiểu, Ngài dùng tuệ nhãn xem xét căn cơ của chúng sanh và quyết định đứng dậy khi biết được rằng: “ Căn cơ của chúng sanh tựa như những bông sen tươi đẹp, có những bông đã vượt lên mặt nước, có những bông hoa còn nằm ngang lưng chừng mặt nước và những bông khác còn nằm sâu dưới lòng nước”. Từ đó, vô lượng phương tiện Ngài đã mởbày hóa độ chúng sanh khắp cõi Ấn Độ. Đầu tiên là 5 người bạn đồng tu với bài Pháp Tứ Đế và Vô Ngã Tướng. Tam Bảo ba ngôi quý báu để lòai người nương tựa bắtđầu từ đây. Những kẻ ngoại đạo cứng đầu, những vị quân vương đều được Ngài khai thị và quy đầu làm đệ tử xuất gia, tại gia, cho đến những kẻ bần cùng hốt phân, nghèo nàn, dâm nữ, tướng cướp và ác độc: Tất cả đều bình đẳng trong lời dạy của Ngài và hơn thế nữa có mặt trong hàng ngũ của Tăng đoàn, một trong ba ngôi báu, không một mảy may tự ti.

B/ Đức Phật nhập Niết bàn: Lời dạy cuối cùng khi công đã mãn, những gì cần làm Đức Phật đã làm, việc gì đã xong thì cũngđã hoàn tất: “Các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy là hòn đảo của chính mình làm nơi nương tựa….Ta chỉ là một bậc Thầy dẫn đường… Giáo pháp còn thì Ta còn……”. Tất cả những lời dạy ấy là những lời dạy cuối cùng của một bậc Đạo Sưkhông phải là một Thượng Đế tối cao và cũng không phải là một bậc đầy quyền năng bởi những lời dạy hàm chứa tính tự giác và giác tha của mỗi con người. Tại xứ Câu Thi La bên rừng cây Sa la, Đức Phật đã an nhiên nhập diệt, để lại một khung trời tím ngắt, làm tím đẫm lòng người con Phật nhiều nơi trên xứ Ấn và những vùng lân cận, nơi có dấu chân Ngài đi qua.

IV/ SỰ THỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT:

Sự thị hiện của Đức Phật, đầu tiên chúng ta muốn nói đến ấy chính là lòng từ bi của Ngài, vì thương tưởng đến chúng sanh trầm luân trong sinh tử, khổ não trong cuộc sống lầm than. Trong kinh Pháp Hoa nói rằng Đức Phật ra đời vì một nhân duyên lớn khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật Tri Kiến.

Trên phương diện lịch sử Đức Phật là một con người có thật, một con người lịch sử không phải là một vị Thần, hay một vịThượng đế giáng trần như nhiều tôn giáo khác đã tô vẽ cho vị giáo chủ của họ. Đức Phật thị hiện ý nghĩa khác hẳn với sự giáng thế của nhiều vị giáo chủ khác không phải từ quyền uy hoặc từ sáng tạo hoặc trong trạng thái tuyệt đối của mộtđấng tối cao mà là một vị Thầy giản dị mang ánh sáng giác ngộ đến với loài người.

Sự thị hiện của đức Phật đánh đổ toàn bộ khối tư duy hữu ngã, hữu thần như Ngài đã tuyên bố khi đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Ngã chính là chỉ cho chơn ngã, chân tâm của mỗi con người chứ không phải là bản ngã hay tiểu ngã của riêng Ngài và cho rằng Ngài là trên tất cả. Chính ngay những giây phút đầu tiên khi đản sinh, Thái tử Tất Đạt Đa đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại, cuộc cách mạng đó đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử tôn giáo mà trước đây đã đè nặng lên ý thức của con người.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.