Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 9 – 10

ĐOẠN II

KHAI-THỊ CÁC ẤM-MA

Chi I. – Những cảnh thuộc Sắc-ấm

“A-nan nên biết, ông ngồi đạo-trường, tiêu-diệt các niệm, niệm đó nếu hết, thì tâm ly-niệm sáng-tỏ tất-cả, động-tĩnh không rời, nhớ quên như một. Đương khi an-trụ nơi chỗ đó mà vào Tam-ma-đề, thì như người tỏ mắt ở chỗ rất tối-tăm, tính-biết được diệu-tịnh, nhưng tâm chưa phát ra trí sáng-suốt; thế thì gọi là phạm-vi của Sắc-ấm.

Nếu con mắt sáng-tỏ, mười phương rộng-mở, không còn tối-tăm nữa, thì gọi là hết Sắc-ấm; người đó mới có thể vượt khỏi kiếp-trược, xét lại nguyên-do, thì cỗi-gốc là vọng-tưởng kiên-cố.

A-nan, chính đương trong lúc chín-xét tính diệu-minh, tứ-đại không kết-hợp, thì trong một thời-gian ngắn, tâm có thể ra khỏi các ngăn-ngại, ấy gọi là tinh-minh trào ra tiền-cảnh; đó chỉ do công-dụng tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; nếu không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì liền mắc các tà-kiến.

A-nan, lại đem cái tâm ấy chín-xét tính diệu-minh, trong thân trở nên rỗng-suốt, người đó bỗng-nhiên, ở trong thân mình, nhặt ra các thứ giun-sán mà cái thân vẫn y-nguyên, không bị tổn-thương; ấy gọi là tinh-minh trào vào hình-thể, chỉ do tu-hành tinh-tiến, tạm thấy được như vậy, không phải là chứng bậc thánh; nếu không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì liền mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, chín-xét trong ngoài, khi đó ý-thức tư-tưởng, ngoài bản-thân ra, còn bén vào các nơi khác, đắp-đổi làm khách, làm chủ; bỗng-dưng ở giữa hư-không, nghe tiếng thuyết-pháp hoặc nghe mười phương đồng diển-bày nghĩa thâm-mật; ấy gọi là tinh-thần đắp-đổi khi ly, khi hợp; thành-tựu được thiện-chủng, thì tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, đứng-lặng hiện ra sáng-suốt; tâm-quang phát-minh, khắp cả mười phương thành sắc Diêm-phù-đàn, tất-cả các loài hóa làm Như-lai; lúc bấy-giờ, bỗng thấy Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài Thiên-quang, có ngàn đức Phật vây quanh, trăm ức cõi-nước cùng với hoa sen đồng một thời hiện ra; ấy gọi là ý-thức tiêm-nhiễm sự linh-ngộ, khi tâm-quang phát-minh, soi các thế-giới, thì tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, chín-xét tính diệu-minh, quan-sát không ngừng, đè-nén, uốn-dẹp, dứt-trừ thái-quá; lúc bấy-giờ, bỗng-nhiên mười phương hư-không thành sắc thất-bảo, hoặc sắc bách-bảo, đồng-thời cùng khắp, không ngăn-ngại lẫn nhau; những sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi thuần-hiện ra, ấy gọi là công-sức đè-nén quá phần, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, lặng-suốt chín-xét, trong-sáng không tán-loạn; bỗng ở giữa đêm, thấy các thứ vật trong nhà tối, chẳng khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà tối đó cũng không diệt mất; ấy gọi là định-tâm lặng-đứng cái thấy, nên thấy suốt chỗ tối-tăm, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, khắp vào tính hư-dung, bốn vóc bỗng đồng như cỏ, như cây, lửa đốt, dao cắt toàn không hay-biết, khi thì ngọn lửa không thể đốt cháy, dù cắt thịt cũng như chẻ cây; ấy gọi là năm trần đều tiêu; khi bài-xích tính tứ-đại, một mặt vào chỗ thuần-nhất, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, thành-tựu tính thanh-tịnh, công-dụng tột bậc, bỗng thấy mười phương núi sông, đất-liền đều thành cõi Phật, đủ bảy thứ báu chói-sáng cùng khắp; lại thấy chư Phật Như-Lai, như số cát sông Hằng, đầy khắp cõi hư-không, lâu-đài hoa-lệ; dưới thấy địa-ngục, trên xem thiên-cung, không còn ngăn-ngại; ấy gọi là tư-tưởng ưa-chán chứa-nhóm ngày một sâu, lâu lắm hóa-thành như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, nghiên-cứu sâu-xa, bỗng ở giữa đêm, thấy rõ chợ-búa, làng-mạc, bà con quyến-thuộc phương xa, hoặc nghe lời nói; ấy gọi là nén-ép cái tâm tột bậc nên nó bay ra, thấy được chỗ xa-cách, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

Lại dùng cái tâm ấy, nghiên-cứu cùng-tột, thấy vị thiện-tri-thức, rồi hình-thể biến-đổi, không duyên-cớ gì, trong giây-lát có nhiều thứ thay-đổi; ấy gọi là tà-tâm; bị loài lỵ-mỵ hoặc mắc thiên-ma vào trong tâm-thức, không duyên-cớ gì lại biết thuyết-pháp, thông-suốt các diệu-nghĩa, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ thì ma-sự tự tiêu-diệt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.

A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Sắc-ấm và tâm công-dụng giao-xen, nên hiện những việc đó; chúng-sinh ngu-mê, không biết suy-xét tự lượng, gặp nhân-duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ, phải đọa vào ngục Vô-gián. Sau khi Như-lai diệt-độ rồi, các ông nên nương theo lời dạy, khai-thị nghĩa nầy trong đời mạt-pháp, không để thiên-ma được dịp khuấy-phá; giữ-gìn che-chở cho chúng-sinh thành đạo vô-thượng.

Chi 2. – Những cảnh thuộc Thụ-ấm.

“A-nan, thiện-nam-tử kia tu phép Tam-ma-đề, trong Xa-ma-tha, khi Sắc-ấm hết rồi, thì thấy tâm chư Phật như cái bóng hiện ra trong gương sáng, hình-như có được, nhưng chưa có thể dùng; cũng như người bị bóng-mộc đè, tay chân y-nguyên, thấy nghe không sai, nhưng tâm bị khách-tà, không cử-động được; thế thì gọi là phạm-vi của Thụ-ấm.

Nếu bóng-mộc hết đè, thì cái tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, đi ở tự-do, không còn ngăn-ngại; thế gọi là hết Thụ-ấm; người đó mới có thể vượt khỏi kiến-trược, xét lại nguyên-do, thì cỗi-gốc là vọng-tưởng hư-minh.

A-nan, thiện-nam-tử kia, đương ở trong đó, được rất sáng-suốt, cái tâm phát-sinh đè-nén quá phận, bỗng ở nơi đó phát ra lòng bi vô-cùng, như thế cho đến xem thấy muỗi-mòng như là con đỏ, tâm sinh thương-xót, nước mắt tự chảy ra; ấy gọi là công-dụng đè-nén quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh; giác-ngộ không mê nữa, lâu tự tiêu hết. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma sầu-bi vào trong tim gan, thấy người thì đau-xót, kêu-khóc vô-hạn; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

A-nan, lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, cảnh tốt hiện ra trước, cảm-khích quá phần, bỗng ở trong đó, sinh lòng dũng-mãnh vô-hạn; cái tâm mạnh-mẽ, chí bằng chư Phật, bảo ba tăng-kỳ, một niệm có thể vượt khỏi. Ấy gọi là công-dụng lấn-lướt quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh; giác-ngộ không mê nữa, thì lâu tự tiêu hết. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma ngông-cuồng vào trong tim gan, thấy người thì khoe, ngã-mạn không ai sánh được; tâm người ấy, cho đến, trên không thấy Phật, dưới không thấy người; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trước không có chỗ chứng mới, lui về thì mất chỗ cũ, trí-lực suy-kém, vào Trung-hủy-địa, hẳn không thấy gì; trong tâm bỗng sinh lòng rất khô-khát; trong tất-cả thời thầm-nhớ không thôi, rồi cho như thế là tướng tinh-tiến. Ấy gọi là tu-hành không trí-tuệ, tự sinh lầm-lạc; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma nhớ vào trong tim gan, ngày đêm như nắm cái tâm treo vào một nơi; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, sức tuệ quá định, bị cái lỗi quá mạnh-mẽ sắc-bén; đem cái thắng-tính ôm vào trong tâm, tự ngờ mình là Phật Lô-Xá-Na, được một ít đã cho là đủ. Ấy gọi là chỗ dụng-tâm quên mất suy-xét, nên đắm vào nơi tri-kiến, ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma Hạ-liệt-dị-tri-túc vào trong tim gan, thấy người thì tự xưng đã được vô-thượng Đệ-nhất-nghĩa-đế, sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ đã mất, soi cả hai bên, tự cho là nguy-hiểm; trong tâm bỗng-nhiên sinh ra lòng lo vô-tận, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống, thường cầu người khác hại thân-mệnh mình để sớm được giải-thoát. Ấy gọi là tu-hành sai mất phương-tiện; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thường-lo-rầu vào trong tim gan, tay cầm dao-gươm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo-rầu, chạy vào trong rừng núi, không thích thấy người ta, sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, trong chỗ thanh-tịnh, tâm được yên-ổn, bỗng có cái mừng vô-hạn sinh ra, trong tâm mừng-rỡ, không thể tự ngăn. Ấy gọi là lòng khinh-an, không có trí-tuệ tự ngăn mình; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thích-vui-mừng vào trong tim gan, thấy người thì cười, ở bên đường cái, tự ca tự múa, tự bảo đã được vô-ngại giải-thoát; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, tự bảo là đã đủ rồi; không căn-cứ gì, bỗng có lòng đại-ngã-mạn phát ra, như thế cho đến lòng mạn, quá-mạn và mạn-quá-mạn, hoặc lòng tăng-thượng-mạn, hoặc lòng ty-liệt-mạn, một thời đều phát ra; trong tâm còn khinh thập phương Như-Lai, huống nữa là các bậc dưới như Thanh-văn, Duyên-giác. Ấy gọi là thắng-giải quá cao, không trí-tuệ để tự cứu; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma Đại-ngã-mạn vào trong tim gan, không lễ chùa tháp, phá-hỏng kinh tượng, bảo đàn-việt rằng: Đó là đồ kim-đồng hoặc đồ thổ-mộc, kinh là lá cây, hoặc là giấy lụa; xác-thịt chân-thường, không tự cung-kính, lại sùng-bái đồ thổ-mộc, thật là trái-ngược. Những người quá tin, theo lời-dạy phá-phách, chôn-bỏ trong đất, do gây nghi-ngờ lầm-lạc cho chúng-sinh, phải đọa vào ngục Vô-gián; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trong chỗ tinh-minh, viên-ngộ được tinh-lý, được phép đại-tùy-thuận; tâm bỗng sinh ra lòng khinh-an không-lường, bảo mình đã thành bậc thánh, được đại-tự-tại. Ấy gọi là nhân trí-tuệ được các sự khinh-thanh; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thích-khinh-thanh vào trong tim gan, tự bảo đã đầy-đủ, không cầu-tiến lên nữa; bọn đó phần nhiều làm như Vô-văn tỷ-khưu, gây nghi-ngờ lầm-lạc cho chúng-sinh, rồi đọa vào ngục A-tỳ; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trong chỗ tỏ-ngộ, được tính hư-minh; lúc ấy bỗng xoay lại hướng theo tính đoạn-diệt, bác không nhân-quả, một mực vào rỗng-không; tâm rỗng-không hiện-tiền, cho đến phát-sinh nhận-định là đoạn-diệt mãi mãi. Ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma rỗng-không vào trong tim gan, chê-bai người giữ-giới là Tiểu-thừa, chứ Bồ-tát đã ngộ được tính-không, thì có gì là trì với phạm. Người đó thường ở nhà đàn-việt thiện-tín, uống rược ăn thịt, làm nhiều điều dâm-uế; nhân có sức ma, nhiếp-phục người ta không sinh lòng nghi-báng; tâm ma thâm-nhập lâu ngày, hoặc ăn đại-tiện tiểu-tiện, cũng như ăn thịt uống rượu, vì tất-cả đều không; phá luật-nghi của Phật, làm cho người khác lầm-lạc mắc tội; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

Lại các thiện-nam-tữ trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, nghiền-ngẫm cái hư-minh, ghi-sâu vào tim-cốt, trong tâm bỗng có lòng yêu vô-hạn sinh ra; yêu quá phát điên, bèn làm việc tham-dục. Ấy gọi là cảnh định an thuận vào tâm, không trí-tuệ tự giữ mình, lầm vào ngũ-dục; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma ngũ-dục vào trong tim gan, một mặt bảo sự dâm-dục là đạo Bồ-đề, dạy các bạch-y bình-đẳng làm việc dâm-dục, những người hành-dâm gọi là trì-pháp-tử; do sức tà-ma nhiếp-phục kẻ phàm-phu trong đời mạt-pháp, số đến cả trăm, như thế cho đến một trăm, hai trăm, hoặc năm sáu trăm, nhiều đến ngàn vạn; khi ma sinh chán, rời-bỏ thân-thể, đã không còn uy-đức, thì sa vào lưới pháp-luật; do gây nghi-ngờ lầm-lạc cho chúng-sinh, phải đọa vào ngục Vô-gián; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.

A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Thụ-ấm và tâm công-dụng giao-xen, nên hiện như vậy; chúng-sinh ngu-mê không biết suy-xét tự lượng, gặp nhân-duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ, phải sa vào ngục Vô-gián. Sau khi tôi diệt-độ rồi, các ông nên đem lời nói này của Như-lai, truyền-dạy trong đời mạt-pháp, khiến cho chúng-sinh đều tỏ-ngộ nghĩa đó, không để thiên-ma được dịp khuấy-phá; giữ-gìn che-chở cho chúng-sinh thành đạo vô-thượng.

Chi 3. – Những cảnh thuộc Tưởng-ấm

“A-nan, thiện-nam-tử kia, tu pháp Tam-ma-đề, khi Thụ-ấm hết rồi, tuy chưa hết mê-lầm, nhưng tâm đã rời khỏi hình-hài như chim ra khỏi lồng, điều ấy đã thành-tựu được rồi. Từ phàm-thân đó, tiến lên trải qua sáu mươi thánh-vị Bồ-tát, được ý-sinh-thân, tùy-ý đi, ở, không còn ngăn-ngại. Ví-như có người ngũ say nói mơ, người ấy tuy không hay-biết gì, nhưng lời nói đã có âm-vận thứ-tự, khiến người không ngũ đều hiểu-biết được; ấy thì gọi là phạm-vi của Tưởng-ấm.

Nếu biết động-niệm, tư-tưởng hư-vọng tiêu-trừ, thì nơi tâm giác-minh, như bỏ hết bụi-nhơ, một dòng sinh-tử, đầu đuôi soi khắp, gọi là hết Tưởng-ấm; người ấy mới có thể vượt khỏi phiền-não-trược, xét lại nguyên-do, cỗi-gốc là vọng-tưởng dung-thông.

A-nan, thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không còn mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh, trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa được viên-minh, thúc-giục tư-tưởng, tham-cầu những thiện-xảo. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn; đến chỗ thiện-nam-tử cầu thiện-xảo kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Thân-hình người đó giây-lát, hoặc làm tỷ-khưu cho người kia thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ-nữ, hoặc làm tỷ-khưu-ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có hào-quang chói-sáng. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tin lời dạy-bảo, lay-chuyển cái tâm, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói những sự may rủi biến-đổi, hoặc nói Như-lai ra đời ở chỗ Mỗ, hoặc nói có kiếp-hỏa, hoặc nói có đao-binh, khủng-bố người ta, khiến cho gia-tư không cớ gì phải hao mất. Ấy gọi là giống quái-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

A-nan, lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi chơi, cho tư-tưởng bay đi, tham-cầu trải qua nhiều nơi. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử muốn đi chơi kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó không thay-đổi, song những người nghe pháp, bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu, thân-thể hóa-thành thân vàng chói-sáng; cả một thính-chúng, mỗi người đều như thế, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm hóa dâm-dật, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói các đức Phật ứng-hóa ra đời, người Mỗ, chỗ Mỗ tức là hóa-thân của đức Phật Mỗ; người Mỗ sẽ đến, tức là vị Bồ-tát Mỗ, đến giáo-hóa thế-gian. Người tu-hành thấy thế, tâm sinh hâm-mộ, tà-trí thầm-thầm nổi lên, chủng-trí tiêu-diệt. Ấy gọi là giống bạt-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa thầm-hợp, lặng-đứng cái tư-tưởng, tham-cầu được khế-hợp. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện-nam-tử cầu khế-hợp kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó và những người nghe pháp, bề ngoài không có thay-đổi, nhưng lại khiến cho các thính-giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự khai-ngộ, niệm-niệm dời-đổi, hoặc được túc-mạng-thông, hoặc có tha-tâm-thông, hoặc thấy địa-ngục, hoặc biết các việc hay, dở trong thế-gian, hoặc miệng nói bài kệ, hoặc tự tụng-kinh được, mỗi mỗi đều vui-vẻ, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm sinh ra dính-dáng yêu-đương, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma thích nói Phật có lớn, nhỏ, đức Phật Mỗ là đức Phật trước, đức Phật Mỗ là đức Phật sau, trong đó cũng có Phật thật, Phật giả, Phật trai, Phật gái; Bồ-tát cũng thế. Người tu-hành thấy như vậy, bỏ sạch bản-tâm, dễ vào các tà-ngộ. Ấy gọi là giống mỵ-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết cỗi-gốc; nơi sự vật chuyển-hóa, muốn xét biết cùng-tột chung-thủy, thúc cái tâm sáng-suốt thêm, tham-cầu nhận-biết chia-chẻ. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu biết cỗi-gốc kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó có uy-thần, làm cho những người cầu-pháp đều kính-phục; khiến cho thính-chúng dưới pháp-tọa, khi chưa nghe pháp, tự-nhiên tâm đã phục rồi; tất-cả bọn ấy đều cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, pháp-thân của Phật, tức là cái xác-thịt hiện-tiền; cha con sinh nhau, đời này đến đời khác, tức là pháp-thân thường-trụ không mất; đều chỉ hiện-tại, tức là cõi Phật, không có cõi tịnh-cư và thân kim-sắc nào khác. Người tu-hành tin-lĩnh những điều đó, bỏ mất bản-tâm, đem thân-mạng mà quy-y, được cái chưa từng có; người đó ngu-mê, lầm là Bồ-tát, suy-xét cái tâm như thế, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói, mắt, tai, mũi, lưởi đều là tịnh-độ, hai căn nam nữ tức là chỗ thật Bồ-đề Niết-bàn; bọn không biết kia, đều tin lời nhơ-nhớp đó. Ấy gọi là giống cổ-độc-quỷ và giống áp-thắng-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết các việc trước sau, chín-xét cùng khắp, tham-cầu được thầm-cảm. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy; cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu cảm-ứng kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, có thể khiến cho thính-chúng tạm-thấy cái thân như đã trăm ngàn tuổi, tâm sinh ra ái-nhiễm, không thể rời-bỏ, đem thân làm nô-bộc, cúng-dường tứ-sự, không biết mệt-mõi; lại khiến cho mỗi người dưới pháp-tọa, tâm biết đó là vị Tiên-sư, là vị Thiện-tri-thức, riêng sinh lòng pháp-ái, dính như keo-sơn, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, gần-gũi tâm ma, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói, ta ở kiếp trước, trong đời Mỗ, trước độ người Mỗ, lúc đó là thê thiếp, anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau; ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh-giới Mỗ, cúng-dường đức Phật Mỗ; hoặc nói có cõi trời đại-quang-minh riêng-biệt, Phật ở trong ấy, và là chỗ nghỉ-ngơi của tất-cả các đức Như-lai. Bọn không biết kia, đều tin những lời phỉnh-gạt đó, bỏ mất bản-tâm. Ấy gọi là giống lệ-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi sâu vào, khắc-khổ siêng-năng, thích ở chỗ thầm-vắng, tham-cầu sự yên-lặng. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu thầm-lặng kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, khiến cho thính-chúng, mỗi người đều biết nghiệp-cũ của mình; hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: “Ngươi nay chưa chết đã làm súc-sinh”, rồi bảo một người đạp cái đuôi đằng sau, liền khiến người đó đứng dậy không được; cả trong một chúng đều hết lòng kính-phục, có người móng tâm lên, thì nó đã biết ý; ngoài luật-nghi của Phật ra, nó lại càng thêm khắc-khổ, chê-bai tỷ-khưu, mắng-nhiếc đồ-chúng, phơi-lộ việc người ta, không tránh sự cơ-hiềm. Miệng ma ưa nói những họa phúc chưa đến và khi đã đến rồi, thì mảy-may không sai. Ấy gọi là giống đại-lực-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.