Thuyết Bốn Ðế – Phần VI

Giới và Luật:

Giới tương đương với đạo đức. Luật tương đương với pháp luật. Giới có ý nghĩa rộng hơn, so với luật Giới là những điều mình giữ cho bản thân mình, nó thuộc về tinh thần, về nội tâm. Còn luật là điều mình giữ vì người khác, vì xã hội. Tuy nhiên trong sách thưòng dùng hai từ này đi kèm với nhau, như trong hợp từ quen thuộc Giới Luật, vì không có ranh giới phân biệt rõ ràng giữa hai từ.

Về sự thành lập Luật tạng:

Luật tạng được kết tập ở cuộc đại hội kết tập lần thứ nhứt, ở thành Vương Xá, vài tháng sau khi Phật Niết Bàn. Người kết tập luật tạng là tôn giả Upali, trong thời Phật còn sống vốn được ca ngợi là “Giới luật đệ nhứt”.

Luật tạng, sau khi kết tập, dần dần được hoàn chỉnh và được định hình trong các bộ luật của các bộ phái. Như đã nói trên, luật tạng bao gồm hai nhóm giới luật chính là chỉ trì giới (tránh điều ác) và tác trì giới (làm điều thiện), ứng với hai câu kệ nổi tiếng của Chư Phật.

Chư ác mặc tác
Chúng thiện phụng hành

Dịch:

Chớ làm các điều ác,
Làm mọi điều lành

Chỉ trì giới: gồm 250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo ni. Tùy theo các bộ phái mà con số giới luật có xê xích khác nhau, nhưng mức độ xê xích không lớn. Trong luật tạng, có phần phân biệt chú giải các giới điều, gọi chung là kinh Phân biệt, P.Suta vibhanga.

Tác trì giới: gồm các quy định sinh hoạt của tăng đoàn, như quy định về cách thức thọ giới của người xuất gia, về tổ chức tụng giới (Bồ tát) tổ chức an cư kiết hạ, ngày tự tứ, một số quy định về ăn, mặc, ở của tu sĩ, kèm theo phần chú thích những quy định này. Cả phần này gọi là kiền độ (khandhaka). Ngoài hai phần trên, trong luật tạng còn có một phần phụ lục, gọi là phụ tùy (parivara).

Như vậy luật tạng Pali (Thượng tọa bộ) cũng như luật tạng các bộ phái khác bao gồm 3 bộ phận:

(1) Kinh phân biệt: giới điều cho Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, bao gồm cả chú giải.

(2) Kiền độ: quy định cách thức sinh hoạt cho tăng đoàn, đại phẩm và tiểu phẩm, gồm 22 kiền độ.

(3) Phụ tùy.

Nói chung, luật tạng (bất cứ thuộc bộ phái nào) đều do ba bộ phận trên tạo thành. Hiện nay, còn giữ lại được 5 bộ luật tạng:

1. Luật tạng Pali, thuộc Thượng tọa bộ của Phật giáo Nam Phương.

2. Ngũ phần luật : thuộc Hóa địa bộ (tên một bộ phái Phật giáo).

3. Tứ phần luật : thuộc Pháp tạng bộ.

4. Ma ha tăng kỳ luật : thuộc Ðại chúng bộ.

5. Thập tụng luật : Nhất thiết hữu bộ.

6. Hữu bộ tân luật : Căn bản nhứt thiếu hữu bộ.

7. Luật tạng bằng chữ Tây Tạng : Căn bản nhứt thiết hữu bộ.

(Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Ðại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, là tên của một số bộ phái quan trọng, xuất hiện trong thời kỳ Phật giáo bộ phái, khoảng 200 năm sau khi Phật Niết Bàn. Vì từ bộ phái Nhất thiết hữu bộ tách ra một số bộ phái khác, cho nên bộ phái gốc sau này được gọi là căn bản nhất thiết hữu bộ).

Trong 7 bộ luật được lưu lại hiện nay, và có ghi tên trên đây thì hai bộ thứ sáu và thứ bảy giống nhau, chỉ có khác là bộ luật thứ 6 (thập tụng luật) là một bộ luật không hoàn chỉnh của Hữu bộ. Còn bộ thứ bảy, dịch ra chữ Tây Tạng là một bộ luật hoàn chỉnh và đầy đủ của Hữu bộ. Luật tạng là văn bản cơ sở để quy định sinh hoạt của tăng đoàn. Hiện nay, sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo Nam Phương hoàn toàn dựa vào bộ luật tạng của Thượng tọa bộ. Ở Trung Quốc vào đời Đưòng, tăng sĩ Ðạo Tuyên ở Nam Sơn, lập ra luật tạng, là dựa vào bộ luật Tứ phần của Pháp Tặng bộ. Vì vậy tông phái của ông cũng có tên gọi “Tứ phần luật Tông”.

Các giới điều của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni được xếp làm 8 loại như sau :

(1) Ba la di: S. Parajaka là giới điều quan trọng nhứt của Tỳ Kheo, người phạm lỗi Ba la di lập tức mất tư cách tăng sĩ vì vậy mà Trung Quốc dịch nghĩa là đoạn đầu, nghĩa là chém đầu. Cũng như ở ngoài đời, nếu phạm tội cực nặng thì bị chém đầu Ðó là các tội: dâm dục, trộm cắp, giết người, đại vọng ngữ (chưa chứng quả Thánh mà dám tuyên bố đã chứng).

(2) Tăng tàn : S.Sanghavasera P.Sanghade sera. Tội tăng tàn, có mức độ nghiêm trọng, chỉ kém tội Ba la di một bậc. Nếu phạm thì sẽ phải sống biệt trú, và mất quyền lợi tăng sĩ trong một thời gian. Tổng cộng có 13 tội : sờ mó thân phụ nữ, làm môi giới hôn nhân, nói vu và phỉ báng người, làm tăng chúng mất đoàn kết….

Có sách giải thích tăng tàn là người phạm tội sám hối và cầu xin tăng chúng thương xót, cho duy trì mạng sống tăng sĩ tàn tạ của mình.

(3) Bất định: S.Aniyata, đây là tội chưa rõ, tuy tăng sĩ có phạm, cho nên gọi là bất định. Gồm có hai loại tội: vi phạm bí mật hay công khai.

(4) Xã đọa: Naiksirajika-payattika. P.pissaggiya pacittika.

Tội có lấy của phi pháp, nhưng sau biết đem nộp lại cho tăng đoàn và xin sám hối. Tổng cộng có 30 tội, gọi là 30 pháp xã đọa. Ðó là các tội có liên quan đến y phục và dụng cụ của tăng sĩ.

(5) Ðơn đọa: S.Payattika, P. Pacittika. Một loại tội nhẹ, chỉ cần sám hối là miễn tội. Tổng cộng có 90 tội đơn đọa, cũng gọi là đơn đề. Thí dụ: làm hư hỏng cỏ cây là một tội đơn đọa, ăn quá ngọ (đối với Tăng sĩ Nam Tông) cũng là một tội đơn đọa,v.v…

(6) Hối quá: S.pratidesamya P.patidesanya. Các lỗi nhỏ liên quan tới ăn uống, chỉ cần sám hối là đủ. Có sách dịch âm là Ðề xá ni (S.desana). Có tất cả 4 tội. Thí dụ: nhận thức ăn tín thí quá mức cần thiết…

(7) Chúng học: S.saíksa P.sekhiya. Các lỗi nhỏ trong sinh hoạt hằng ngày, chỉ cần tự mình phản tĩnh là được. Tổng cộng có 100 lỗi, sách Hán gọi là bách chúng học pháp. Thí dụ: mặc áo không chỉnh tề, cười lộ cả hai hàm răng, nhảy qua lạch nước…

(8) Diệt tránh: S. adhikarma – samatha. P.adhikarana-samatha Thực sự đây không phải là tội mà là những phương thức giải quyết các vụ tranh cãi trong tăng đoàn. Có 7 điều, sách Hán gọi là thất diệt tránh pháp.

Tỳ Kheo ni thọ một số giới nhiều hơn Tỳ Kheo, tức 341 giới so sánh như sau:

Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni
Ba la di     4     8
Tăng tàn    13 1  7
Bất định      2   17
Xả đọa    30   30
Ðơn đọa    90  178
Ðề xá ni (hối quá)     4     8
Chúng học  100  100
Diệt tránh     7     7

Có bộ phái đưa số giới của Tỳ Kheo ni lên 348.

Hai mươi kiền độ của tác trì môn:

Kiền độ là dịch âm từ chữ Phạn Khanda, dịch nghĩa là phần hay chương. Hai mươi Kiền dộ là 20 chương, nói về các quy tắc sinh hoạt của tăng già như:

Kiền độ I: nói về phép thọ giới.

Kiền độ II: nói về phép thuyết giới và sám hối mỗi tháng hai lần (gọi

là ngày Bồ tát).

Kiền độ III: nói về phép an cư kiết hạ hàng năm.

Kiền dộ IV: nói về tổ chức ngày tự tứ, kết thúc mùa an cư, kiết hạ.

Kiền dộ V: nói về quy tắc các Tỳ Kheo dùng các đồ vật bằng da.

Kiền độ VI: nói về ba áo của tu sĩ (tam y).

Kiền dộ VII: nói về bốn loại thuốc dùng cho tăng sĩ.

Kiền độ VIII : nói về công đức y, mà Tỳ Kheo nhận được vào ngày

Tự tứ, ngày kết thúc kỳ an cư kiết hạ.

Kiền độ IX: nói về phép giáo hóa trong vụ Tăng sĩ mất đoàn kết ở

Kausambi.

Kiền độ X: nói về phép đối đãi với Tỳ Kheo là khách từ các nơi khác

đến.

Kiền độ XI: nói về phép khiển trách, xử phạt Tỳ Kheo phạm giới.

Kiền độ XII: nói về trường hợp Tỳ Kheo phạm tội, nhưng không giấu,

thì nên sám hối như thế nào.

Kiền dộ XIII : Tỳ Kheo phạm tội nhưng che giấu, không bộc lộ, phải

được xử phạt như thế nào.

Kiền độ XIV: nói về cách thức phạt Tỳ Kheo phạm tội không được ở

trong chúng.

Kiền độ XV: nói về cách xử lý tội phá hòa hợp tăng.

Kiền độ XVI: nói về bảy pháp xử lý các vụ tranh cãi trong tăng chúng. Kiền độ XVII: nói riêng về quy tắc sinh hoạt của Tỳ Kheo ni.

Kiền độ XVIII: nói về uy nghi của Tỳ Kheo.

Kiền độ XIX: nói về việc Tỳ Kheo ở trong phòng.

Kiền độ XX: một số quy tắc sinh hoạt không được quy định trong 19 Kiền độ trên.

Giới thể, giới tướng và giới hạnh

Giới thể là chủng tử lưu lại trong tạng thức của người thọ giới, sau khi được truyền giới. Chủng tử đó có tác dụng bảo vệ người thọ giới cho khỏi phạm giới. Có sách gọi đó là vô biểu sắc.

Giới hạnh: là hành vi theo đúng giới luật được thọ trì.

Giới tướng: do có giới thể, giới hạnh mà biểu hiện ra ngoài thành giới tướng thanh tịnh, tốt đẹp. Vị tăng sĩ giữ giới, nói năng hành xử, đi đứng nằm ngồi đều uy nghi mực thước.

Tông Chân Ngôn (Mật giáo) ở Nhật riêng lập ra hệ thống giới gọi là “Tam muội gia”, lấy ba loại bồ đề tâm làm giới. Nhưng đó chỉ là sự khác biệt về danh từ mà thôi. Còn về nội dung thì cũng không khác gì mười giới thiện (thập thiện giới). Chân Tông ở Nhật Bản (một nhánh của Tông tịnh dộ) thì không có bàn gì tới giới luật cả.

Tín và giới :

Vào thời đại Kamakura (Kiếm Thương) ở Nhật, các tông như Nhật Liên Tông, Chân Tông, Thiền Tông đều không chú trọng nhiều tới giới luật. Nhưng theo sự nhận định của nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản là Thủy Giả (xem cuốn Phật giáo yếu ngữ đích cơ sở tri thức tr 233) Phật giáo Nhật Bản thời đại Kiếm Thương rất coi trọng đức tin, và cho rằng đức tin triệt để, bao hàm đầy đủ giới luật rồi. Thí dụ, chuyên tâm niệm Phật, chuyên tâm ngồi thíền, thì ngay từ ở trong ý nghĩ và lời nói, mọi nghiệp đều đã được thanh tịnh rồi.

Ðây là do giới và tín vốn có quan hệ rất mật thiết. Tăng sĩ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, có câu : “Nếu có đức tin triệt để, thì tự nhiên có được giới”. (tín nhược triệt để, tự khả hoạch đắc giới).

Trong kinh Phật nguyên thủy, có khái niệm “Tứ bất hoại tính” tức là bốn niềm tin trong sạch, không mất tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin ở Giới luật.

Trong kinh Phật nguyên thủy, có bài kệ nổi tiếng là:

Chư ác mặc tác,

Chúng thiện phụng hành,

Tự tịnh kỳ ý,

Thị chư Phật giáo

Nghĩa là :

Mọi điều ác đều không làm,

Làm mọi điều thiện

Tự làm trong sạch tâm ý

Là lời dạy của các Ðức Phật

Bài kệ này được gọi là bài kệ của bảy vị Phật (gồm cả Phật Thích Ca), cho nên cũng gọi là thất Phật thống giới kệ (bài kệ răn dạy chung của bảy vị Phật). Tinh thần của giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm được như vậy là giới. Tâm ý trong sạch là định và tuệ. Bởi vì tâm có lặng (định) mới sáng (tuệ).

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.