Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết – Phần I

1- NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA

Con đường mà tôi để cập tới là một lối đi hẹp, khó khăn và đóng kín.

Vì thế những ai khao khát giải thoát có thể đi vào con đường dẫn tới giải thoát đó.

Tôi sẽ rộng mở chút ít trên vòng hoa lời dạy chữa lành này liên quan tới động lực cao cả hơn[1].

Những tường thuật được kể lại ở đây liên quan tới tôi, Dawa Drolma, con gái của Jigmed T’hrogyal thuộc bộ tộc Tromge, một đạo sư sống trong vùng Washul T’hron. Từ khi còn là một đức trẻ, tôi được phú bẩm một bản tánh bi mẫn, đức tin không định kiến và thị kiến thanh tịnh. Tình thương của tôi thật mãnh liệt đối với mọi hành khất và những người kém may mắn hơn tôi và tôi hiến thân mình để cúng dường và bố thí.

Tôi thực hiện nhiều cuộc nhập thất trì tụng mãnh liệt, đã hoàn tất chẳng hạn như hàng trăm ngàn lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng[2]. Sau này tôi được cảm hứng bởi Dakini Dorje Yudron[3] và những bổn tôn khác của giác tánh nguyên sơ, cũng như bởi một Bồ Tát (bodhisattva) đệ bát địa[4], Ngài mang thân tướng của một vị trời địa phương, đại nyen siêu phàm ở phương bắc[5]. Mặc dù các Ngài không hoàn toàn thuật lại quá khứ, hiện tại và tương lai cho tôi nghe, dù sao thì tôi cũng đã nhận một số lượng phi thường những tiên tri liên quan tới thời đại của chúng ta.

Có một dịp, ba vị tulku[6], cũng như ngài Jatrul[7] và những vị khác du hành xuống thung lũng để tham dự một nghi lễ trọng thể, một sự kiện hàng năm được tổ chức trong một cái lều lớn bằng nỉ. Vào buổi chiều tối, trước khi các ngài giải tán, tôi có một linh kiến mà nửa là một kinh nghiệm thiền định, nửa là một giấc mộng. Trong linh kiến này, ba yêu ma có tên là “các chị em gãy bể samaya”[8] từ hướng cao nguyên Lashar tới, lấy cắp sinh lực của chúng sinh trên ba mức độ thuộc sự hiện hữu có điều kiện[9]. Bà Chị chính cầm một lá cờ bằng lụa đen và một sợi thòng lọng; mặc dù nhiều lần bà ta cố cột chúng vào eo lưng tôi, nhưng vị bổn tôn nghiệp của tôi là Đức Tara tôn quý đã xuất hiện trong một biểu lộ trẻ trung, thân màu trắng chói lọi và đặt tôi trong một chiếc lều được bảo vệ chặt chẽ khiến sợi thòng lọng không thể đụng tới tôi được[10].

Sau này, tôi có một thị kiến về người nào đó lại gần và đánh vào xương vai tôi bằng một cuộn len màu có kích thước cỡ một hòn đá nhỏ, sau đó biến mất. Đây là một kinh nghiệm hết sức xấu, nhưng một lần nữa, Đức Tara lại can thiệp và nói: “Bởi sự việc này, ta phải đi Ấn Độ để lấy một ít thuốc kanadava từ kho tàng bí mật của các dakini ở Orgyan[11]. Ta sẽ không trở về trong bốn ngày. Trong thời gian này, con nên mặc y phục của người nào đó như anh Palchhen của con mà thân anh ta được các vị trời bảo vệ che chở và hãy giữ gìn đừng để tâm con lang thang vơ vẩn. Vào tối thứ tư, hãy dâng cúng tám mươi torma để giải trừ các chướng ngại[12]. Sau đó, như một dấu hiệu là ta đã lấy được thuốc, ta sẽ đến như mặt trời chói lọi, không bị mây che hay một cơn gió hung tợn vây bủa”.

Trong bốn ngày này, tôi đau đớn ghê gớm; cơn đau dữ dội đến nỗi tôi không thể buộc khăn quanh người. Vào tối ngày thứ tư, vị đạo sư hóa thân Tromge Trungpa cử hành một nghi lễ cúng dường tám mươi torma, và ba chị em cắt đứt sinh lực hài lòng với các vật cúng dường, đã quay về trụ xứ riêng của họ. Một mùi hương dễ chịu ngập đầy căn lều bằng nỉ, từ đỉnh lều tới đáy, cho thấy là thuốc đã về tới. Tôi đã có thể thưởng thức một chất dị thường có hương vị rất tuyệt vời, và ngay lập tức, cơn đau của tôi tan biến. Tôi thực sự kinh nghiệm sự kiện kỳ diệu này, là điều mà bất kỳ ai cũng có thể tự mình chứng thực.

Một lúc khác, bất ngờ tôi bị đánh gục như thể giờ chết của tôi chắc chắn đã tới. Đạo sư gốc quý báu[13] và chỗ nương tựa duy nhất của tôi, bậc quyền uy từ bi là kho tàng của lòng bi mẫn, đã cử hành một buổi lễ tràn đầy oai lực để triệu hồi sinh lực trường thọ của tôi. Các vị đạo sư của dòng Sakya[14] lừng lẫy cử hành những sự cầu nguyện, những nghi lễ ban sự che chở, lễ quy y của Đức Hevajra vinh quang[15] và những buổi lễ khác. Sau cùng, những cơn đau mạnh mẽ suy giảm và những cơn đau vi tế hơn nguôi dịu thành một kinh nghiệm về đại lạc tánh Không.

Sau đó, ngài Khakyod Wangpo, đấng thống lĩnh của một trăm bộ Phật, kho tàng vô song và duy nhất của lòng bi mẫn, Đức Vajrasattva[16] toàn thiện vĩ đại trong thực tế, đã dẫn dắt tôi trong một linh kiến với sắc tướng huyễn mộng của giác tánh nguyên sơ của Ngài. Như một người nói chuyện với người khác, tôi đã trò chuyện cùng các dakini của giác tánh nguyên sơ không có thân thể vật lý và đáp lại những câu hỏi của tôi, họ cho tôi những câu trả lời rõ ràng, khiến cho những chướng ngại đối với thọ mạng của cô gái[17] này được giải trừ và tôi đã có thể làm lợi cho chúng sinh theo khả năng của riêng tôi. Tôi đã được tiên tri rằng tôi phải thực hiện các cuộc nhập thất trì tụng về ba vị bổn tôn – Amitayus, Samyak và Vajrakilaya – để viếng thăm nhiều cõi thuần tịnh Hóa thân[18].

Đức Tromge Kundun Rinpoche đã cử hành các lễ quán đảnh về ba bổn tôn này từ các giáo lý của đại terton Laykyi Dorje[19]. Những cách nhìn quen thuộc của tôi về các sự việc được nhẹ nhàng quét sạch và tôi được đưa dẫn trực tiếp vào bản tánh tinh túy vô điều kiện của giác tánh nội tại, không chút lầm lạc. Tôi đốn nhập vào giác tánh nội tại trong toàn bộ sự trần trụi của nó, rồi thì những ngôn từ kim cương bí mật tuôn ra không ngưng nghỉ[20]. Thiên nữ tôn kính, Đức Tara Trắng cao quý, ban cho tôi một linh kiến và nhiều kinh nghiệm thiền định của sự hợp nhất không thể nghĩ bàn của đại lạc và tánh Không đã ló rạng trong dòng tâm thức tôi.

Đó là năm đầu tiên của chu kỳ sáu mươi năm cũ, năm Mộc Tý[21]. Trong tuần trăng khuyết tháng tám, vào ngày hai mươi ba âm lịch xảy ra một sự kiện quan trọng kỷ niệm sự tụ hội của các dakini, một thời gian tốt lành cho sự truyền bá được cách-tân giáo lý quý báu của con đường mật chú[22]. Vào ngày này, chúng tôi lại thăm Chhogtrul Rinpoche. Cô gái này nằng nặc hỏi Ngài về những giấc mơ và kinh nghiệm thiền định trong đời trước của cô, cũng như những kinh nghiệm gần đây và mới vừa xảy ra. Ngài có vẻ hân hoan đến độ đáng kinh ngạc và hết sức hài lòng bởi những tường thuật này.

Tôi nói với Ngài: “Theo một tiên tri mà Đức Tara Trắng nói về cô gái này, con sẽ trải qua khoảng sáu hay bảy ngày trong một trạng thái kiên cố thiền định sâu xa, như thể ở trong một sự hôn mê hay một trạng thái giống như chết”.

Trên thực tế, Chohogtrul Rinpoche và Tromge Trungpa đều bảo tôi: “Tuyệt đối không cần tới loại đồn đại này. Sau khi trải qua tối đa một ngày trong nghi lễ chay nyungnay, con cảm thấy đói và khát[23]. Không tốt hơn sao khi ở trong một lều thiền định tĩnh lặng tự nhiên, không suy nghĩ nhiều, nghỉ ngơi thoải mái trong những điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu[24] và hoàn tất một ít sự trì trụng thần chú?”

“Nhưng”, tôi trả lời “an trụ bảy ngày trong một tình trạng như thế là một điều lợi lạc và rất cần thiết cho việc chữa trị bệnh tật của con”. Tôi cứ quấy rầy các ngài mãi khi hỏi:

“Con có nên ở trong phòng khóa cửa, không dùng chút thực phẩm và nước uống nào không?”

Tromge Kundun Rinpoche nói: “Hoàn toàn không nên làm gì cả! nếu muốn bớt bệnh, con nên cử hành những nghi thức và lễ trường thọ rộng lớn và hãy nhận những lễ quán đảnh Vajrakilaya cùng nghi lễ tắm gội của bổn tôn Bhurkakuta[25]. Con cũng nên chuộc mạng những con vật sắp bị làm thịt. Nếu con ước muốn hoàn thiện hạnh phúc của chúng sinh, hãy thực hành một nghi thức chẳng hạn như nghi thức dẫn dắt chúng sinh ở sáu cõi[26] được tìm thấy trong giáo khóa Sự Giải thoát Tự nhiên của Ý hướng Giác ngộ của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ[27] cùng khẩn cầu nguyên lý của lòng bi mẫn siêu việt bằng cách trì tụng thần chú mani[28] cùng với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện”.

Trước phương cách này và nhiều cách khác mà Ngài buộc tôi phải làm, và mặc dù rất tốt khi tuân theo lời khuyên của Ngài, tôi lặp lại rằng theo ý kiến của tôi thì không có gì để làm ngoài những gì tôi đã mô tả, và tôi quyết định thực hiện phù hợp, không thể trì hoãn thêm nữa.

Vào ngày hai mươi lăm âm lịch, tôi báo cho mọi người xung quanh về tình trạng của tôi. Vào buổi tối, thời điểm của năng lực[29], khi các dakini tụ hội, bảy lạt ma và tulku khá đặc biệt (lạt ma toàn trí Tromge Kundun Ringpoche là vị lỗi lạc nhất trong số họ) được nhiều đệ tử và các thị giả tháp tùng. Cô gái này cũng nhập vào đám đông. Khi tôi ở đó, tâm tôi trở nên minh mẫn hơn bao giờ hết và những kinh nghiệm thiền định và các trạng thái chứng ngộ hết sức đặc biệt xuất hiện trong dòng tâm thức của tôi. Trong tầm nghe của Tromge Kundun Rinpoche tôi tụng đọc những bản văn nghi lễ theo thứ tự thích hợp của chúng mà tôi chưa bao giờ học, Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu, cũng như sự dâng cúng tiệc và nghi thức thực hiện[30]. Tâm tôi cực kỳ hỉ lạc và tôi cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như đêm ấy.

Sau khi đám đông giải tán, tôi ở lại một lúc trong sự hiện diện của đạo sư quý báu của tôi. Sử dụng nhiều phương tiện cả nhẹ nhàng đến phẫn nộ, Rinpoche lập đi lập lại: “Con gái ta, ta xin con đừng tiến hành kế hoạch này”. Tuy nhiên, yêu cầu đó không ích lợi gì và vì thế sau cùng Ngài nói” “Bởi con đã quyết định làm thế, hãy giữ những lời này trong tâm và đừng quên chúng. Từ nay trở về sau, đừng ô nhiễm nẻo đường mê muội, bất tịnh và tăm tối như con đã làm trong quá khứ. Hãy an trụ mà không dùng phương tiện hay nỗ lực nào trong bản tánh chân thật của tâm con, đúng như nó xuất hiện và tự nó xuất hiện. Càng nhiều càng tốt trong mức độ có thể, hãy phát triển lòng tin và cái nhìn thanh tịnh về các đạo sư và bổn tôn được chọn lựa của con, cũng như lòng từ bi đối với mọi chúng sinh, họ đã từng là những bậc cha và mẹ của con”[31]

Cùng với lời nói đó, Ngài tỏ vẻ cung kính tôi bằng cách đích thân cho tôi một đĩa đầy những khẩu phần đặc biệt của tiệc cúng dường. Ngài ngâm tụng: “Cầu mong con được đặt dưới sự bảo trợ của các đạo sư, Tam Bảo và Đức Orgyan vĩ đại[32]. Cho tới khi con thành tựu sự Giác ngộ, cầu mong mọi chướng ngại và nghịch duyên được làm yên dịu. Cầu mong ý hướng giác ngộ không bị tạo tác của hai phương diện của Bộ Đề tâm (bodhicitta)[33], bản tánh nền tảng của thực tại được nảy sinh trong dòng tâm thức của con. Cầu mong con được thiên nữ tôn kính, Đức Tara cao quý dẫn dắt trên con đường và nhờ đó hãy thành tựu lợi ích không thể nghĩ bàn cho chúng sinh”.

Khi Ngài nói những lời này, lòng tin của tôi phát triển thật mãnh liệt khiến tôi có cảm tưởng như thể mình bật khóc. Tôi thực hiện ba lễ lạy và quay trở về ẩn thất của mình.

Sau đó tôi nói với Tulku Tromge Trungpa: “Con sẽ như thể thực sự chết trong khoảng năm ngày. Trong thời gian đó không ai trong những nhà sư hay đệ tử được ra vào phòng con hoặc đi lại nhiều ngoài cửa; họ không nên nói luôn miệng hay gây những tiếng động kinh suất, quấy rối. Xin dọn dẹp mọi thực phẩm ở trước mặt con, đừng để lại nhiều hơn bảy hạt lúa mạch[34]. Để tịnh hóa những khuynh hướng quen thuộc, sự che chướng thai tạng[35] và những ô nhiểm của thân thể con, xin rửa sạch con bằng nước nghệ đã được hiến cúng qua thực hành Vijaya[36]. Vào lúc đó, để cung cấp một điều kiện tốt lạnh đặc biệt, phải có sự hiện diện của một cô gái tên là Drolma”. (Nhưng cuối cùng mọi việc hóa ra tự nhiên suông sẻ bởi một người đàn bà đức hạnh có giới nguyện samaya trong sạch tên là Tsult’hrim Drolma đã trở thành bạn đồng hành của tôi)[37].

Tôi nói tiếp: “Để xác định rõ ràng con thuộc loại bộ Phật nào và để giải trừ các chướng ngại, xin quấn một miếng vài màu xanh da trời quanh đầu con[38]. Cho tới khi con trở lại cuộc đời, Kuzhab Rinpoche[39] sẽ cử hành sự cúng dường bánh cho năm chị ở Lhaman Tsering[40]. Tromge Trungpa sẽ cử hành một trăm tiệc cúng dường của Nữ Hoàng Cực Lạc trong giáo khóa Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu. Để giải trừ những chướng ngại cho các linh kiến của con, các đệ tử và thị giả nên trì tụng càng nhiều càng tốt Lời khẩn nguyện Bảy-Dòng, bài cầu nguyện Giải trừ Chướng ngại trên Con Đường và các thần chú vajra guru (Kim Cương Đạo sư) và Tara[41]. Để bảo vệ con, hãy cài chốt cửa phòng con bằng một khóa móc và có người mặc đồ xanh dương. Và để ngăn chặn và trấn áp thế lực của loài quỷ khát máu, xin niêm phong miếng vải với sáp ong được đóng dấu bằng dấu triện ngược đầu[42].

“Bây giờ cần một bộ quần áo sạch để thay đổi, nó không làm bằng da thú vật hay da sống[43]. Nếu con không chết thực mà quay trở lại cõi đời, con sẽ phải súc miệng; vì thế, con sẽ phải cần tới một cái bình đựng đầy nước mưa sạch hứng từ một trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, nó xảy ra nhờ năng lực của những sự ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Bhaishajyaguru[44].

“Nếu bất kỳ ai hỏi Dawa Drolma đang làm gì khi hành động như này, thì đừng nói điều gì đặc biệt, tốt hay xấu; chỉ cho biết chắc chắn con không sống cũng không chết. Trong năm ngày, xin hãy mời anh Palchhen của con, anh ấy đang sống với gia đình con và những người bà con dưới thung lũng và nói với anh ấy rằng “Em gái anh đang ở trong một trạng thái không sống cũng không chết. Hãy đích thân tới thăm cô ấy”. Mặc dù đòi hỏi chút ít nhọc nhằn nhưng mọi sự con vừa sắp xếp thi hết sức quan trọng, vì thế xin Ngài tiến hành cho”.

Tulku Tromge Trungpa và các thị giả của Ngài hứa sẽ tôn trọng bức thư hướng dẫn mà tôi đã đưa và trung thành với lời cam kết của họ, và như thế tôi nằm xuống giường để nghỉ ngơi.

Cô gái này nói: “Hãy để tâm mi an trụ trong trạng thái tự nhiên nơi đó nó phát triển một cách nội tại, không bị bất kỳ niệm tưởng lan man nào làm gián đoạn”. Phù hợp với yêu cầu này, tôi để tâm tôi an trụ. Trong một tâm trạng khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng. Đây không phải là trạng thái tiềm ẩn kunzhi, là sự vắng mặt đơn thuần các niệm tưởng lan man[45]. Cũng không phải là việc tôi hoàn toàn mê đắm trong những cảm xúc của lạc, sự trong sáng và sự tỉnh giác vô niệm[46]. Và tôi không đơn thuần rơi vào một cuộc nô đùa vô tận của sự vô minh. Đúng hơn, tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó[47]. Bởi giác tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe được tất cả âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận.

Vào sáng ngày hai mươi sáu âm lịch, khi mặt trời nhú lên ở chân trời, tôi nhìn thấy Đức Tôn kính và cao quý Tara thực sự hiện diện trước mặt tôi giữa một khối ánh sáng cầu vồng, thân Ngài có sắc trắng như một bình pha lê. Bà cầm một mũi tên có trang trí những giải ruy băng mà bà dùng để ban phước cho tôi[48].

Từ hướng núi Huy Hoàng trên tiều lục địa Chamara, một cầu vồng gồm năm dải ánh sáng màu song song rọi vào thiền phòng của tôi[49]. Dọc theo con đường này xuất hiện một toán hộ tống gồm bốn phụ nữ trẻ mặc y phục bằng lụa và tô điểm các đồ trang sức bằng xương. Vị dakini ở phương đông, Thiên nữ có Năng lực trên sự Trường thọ, sắc trắng sáng ngời và cầm một mũi tên trang trí dải ruy băng lụa và một cái bình. Dakini ở phương nam là Akyang Tara, dakini ở phương tây là Tara Rồng màu Lam Ngọc, và dakini ở phương bắc là Thiên nữ phương Bắc.

Các ngài đặt tôi trong một ổ rơm có trải lụa sặc sỡ trang trí hoa văn đỏ và trắng. Ngay lập tức, các dakini ở bốn tầng cấp và tôi cùng nhau hát tụng Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng và lớn tiếng trì tụng liên tục các thần chú vajra guru và mani. Tâm tôi trải rộng rộng tới một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, bản tánh cốt tủy của sự hoàn toàn trong sáng trong đó tôi không thể bám níu vào bất kỳ điều gì dù tốt hay xấu theo nghĩa thông thường, giống như pháp giới vô sanh không có gì trong nó và của chính nó, nhưng với một sự chói lọi tự nhiên tuyệt đối không bị ngăn che. Kinh nghiệm thiền định hài hòa và tự phát này xuất hiện như sự phô diễn không thể nghĩ bàn của một đám mây mạn đà la, phạm vi hoàn toàn rộng lớn của kinh nghiệm thuần tịnh[50].

Sau đó tôi cảm giác leo lên càng lúc càng cao tới một khoảng không gian khá rõ ràng, còn nhanh hơn một con chim kên kên đuôi trắng hoang dã bay vút lên không trung. Khi kinh nghiệm bi tráng này mở trải ra như một ảo ảnh biến dịch, bất ngờ tôi thấy mình ở một nơi mà tôi không nhận ra là ở đâu. Giữa một cánh đồng rộng lớn, bao la và siêu phàm đến nỗi dường như bầu trời đổ sập xuống trái đất, một tảng đá có bề mặt lớn đứng sừng sững có hình dạng như một trái tim. Ở mọi phương và những rặng núi trông như những vũ khí chĩa lên bầu trời và đỏ như thể có lấm tấm máu. Trên bầu trời xuất hiện một vòm ánh sáng cầu vồng năm màu. Những chim công trống, chim hét và chim cu cu vút lên, bay chuyền thật vui thích. Không gian tràn ngập mùi hương ngọt ngào có năng lực chuyển hóa những tri giác của ta. Khắp mặt đất phủ đầy các loài hoa gồm năm màu thật đáng yêu – trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Tôi kinh nghiệm cảnh giới này như một nơi chốn thực sự.

Tôi cũng nhìn thất một ngọn núi rất đẹp, xanh thẳm như một viên ngọc bích. Tâm tôi tràn đầy đức tin và thị kiến thanh tịnh không tưởng tượng nổi. Tôi lớn tiếng lập đi lập lại những lời cầu nguyện của pháp guru yoga, Lời Khẩn Nguyện Bảy-Dòng và một lời khẩn cầu mà trước đây chính Đức Tara đã nói với tôi và tôi thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường mạn đà la.

Nơi đây là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara. Khoảng nửa đường lên tới mặt tảng đá, trên một vùng bằng phẳng rộng lớn bao la là lâu đài Liên Hoa Quang rộng mênh mông đứng sừng sững[51]. Cung điện, một hóa thân của giác tánh của Đức Padmasambhava, dc làm bằng năm loại châu báu, một mạn đà la thành tựu tự-sinh và tự nhiên. Từ ngoài vào, bên trong sáng sủa rực rỡ và từ trong nhìn ra, ta có thể thấy rất tường tận. Được kết bằng những cầu vồng, lâu đài có bốn mặt, bốn cổng và các sân, trong đó có hơn một ngàn cung điện khác. Trong những cung điện này là tập hội các vidyadhara[52] cũng như những daka và dakini.

Cô gái này tới cổng phía đông. Ở đó tôi gặp bốn người đàn bà, họ mặc cho tôi một áo choàng lụa sặc sỡ, chiếu sáng như một cầu vồng. Rồi họ ra đi, nhưng tôi không rõ họ đi đâu.

Người đàn bà gác cổng phía đông thách thức tôi: “Cô là ai?”

Tôi trả lời: “Tôi là Dawa Drolma, một con gái của bộ tộc Tromge trong thế giới con người”.

“Vì sao cô tới cõi này?”

Tôi trả lời khiêm tốn: “Nhằm mục đích bảo đảm hạnh phúc của chúng sinh, tôi xin được hội kiến Đức Orgyan Tsokey Dorje[53] và nhiều vidyadhava, daka và dakini trên Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trong tiểu lục địa Chamar”.

Vị dakini trả lời:

Cầu mong cô được Đức Vajravarahi ban phước[54].
Cầu mong các nghịch cảnh và chướng ngại cho sự trường thọ của cô được giải trừ.
Cầu mong cô đạt được quán đảnh kim cương bất diệt.
Và cầu mong cô bảo đảm được hạnh phúc của vô lượng chúng sinh.

Sau đó tôi nhìn thấy cảnh tượng phi thường của cổng phía đông kỳ diệu, một cửa làm bằng pha lê. Trên đó, trong hình chạm khắc lờ mờ là hình ảnh của một tathagata[55] và những chữ đi kèm đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy. Bên trái và phải cửa là những báu vật có hình những con rồng màu lam ngọc uốn mình hình xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ và ngậm nhiều viên ngọc.

Thình lình vị dakini mở cửa bằng một chìa khóa pha lê thạch anh trắng, có bề dài khoảng một bàn tay và đánh dấu bằng những chữ tượng trưng tự-tạo hình, kỳ diệu và huyền bí. Tôi đi bộ vào trong và tìm thấy một cầu thang dài làm bằng châu báu. Tôi trèo lên và trong một căn phòng rộng mênh mông, tôi tìm thấy ngài Jampa Migyur ngồi trên một cái ngai nhỏ[56]. Ngài mặc một áo choàng không tay bằng lụa trắng và tô điểm với nhiều vật trang sức quý báu, tóc Ngài kết lại thành một cái búi. Tay trái Ngài đang lần một mala bằng pha lê trắng, mỗi một trong 108 hột có kích thước khoảng ngón tay cái của ta[57]. Quanh Ngài là đoàn tùy tùng gồm vài trăm dakin ni mặc áo choàng lụa trắng, đang cử hành một buổi tiệc vui vẻ. Các thiên nữ kim cương thuộc sự hoạt động mặc áo choàng xanh dương cúng dường những phần đặc biệt của bữa tiệc trong bốn phương chính trên bầu trời.

Từ hàng sau của tập hội, cô gái này thực hiện ba lễ lạy và cầu nguyện với những ước nguyện cao quý khi xuất hiện trong tâm. Đến gần vị lạt ma, tôi dâng lời sám hối, tự tịnh hóa bằng cách tụng thần chú một trăm âm[58] và cử hành mạn đà la vũ trụ ba mươi bảy điểm[59]. Một dakini ở bên phải vị lạt ma là điều tra kỹ lưỡng quá khứ của tôi. Để trả lời bà, tôi nói năng thẳng thắn nhưng khiêm tốn. Vị lạt ma có vẻ hết sức hài lòng. Tôi tham dự vào buổi lễ tiệc.

Rồi tôi được một bà mặc y phục xanh dương đưa ra ngoài và dẫn tới lâu đài rộng mênh mông khác. Một người có mặt ở đây đang tắm cho một dakini của mộ bộ tộc thuộc thảo nguyên thấp ở miền đông Tây Tạng[60]. Tôi cũng nhận một nghi lễ tắm rửa. Ngự trên một chiếc ngai cao ngất ở giữa chúng tôi, trên một tấm nệm cao bằng lụa đỏ trông thật đặc biệt là ngọn đèn soi sáng các sutra và tantra[61], vương miện của mười triệu vidyadhara, đạo sư vô song, bậc thông thái và thành tựu, bậc toàn trí Jamyang Khyentsei Wangpo[62]. Thân tướng chói ngời của Ngài trông thật lôi cuối và trẻ trung; dường như khoảng mười sáu tuổi. Ngài mặc ba chiếc y nghi lễ và đầu đội chiến nón tượng trưng cho ba sự tích tập kinh điển[63]. Tay Ngài cầm chày kim cương và chuông[64]. Ngài được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng hơn một trăm daka và yogini.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.