Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân

Tuyên Thống năm thứ 2, 71 tuổi. (1910/11)

Từ khi chiếu vua ban ra, ngăn cấm quan quân thâu lấy tài sản chùa chiền, cùng thỉnh được Đại Tạng Kinh về núi, tăng già toàn tỉnh tạm sống an ổn. Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Lý Kỉnh Hy, phái tùy viên đến thăm viếng và bảo toàn gia quyến đến chùa làm lễ quy y, tặng rất nhiều lễ vật. Tôi thỉnh thầy Giới Trần ra thất. Lại cố khuyên răn tăng chúng trên núi phải tôn trọng giữ gìn giới luật cẩn trọng. Đề xướng giáo dục thanh niên, dẹp trừ tập khí xấu xa, phấn chấn đạo phong núi Kê Túc. Thương lượng quan huyện Tân Xuyên thả các thầy bị nhốt trong tù cùng các tù nhân nhẹ tội.

Mùa hạ, từ Cổ Sơn chuyển đến một bức thư gia đình tại Tương Lương. Chốc đó mà đã năm mươi năm kể từ lúc xuất gia. Tôi viết ba bài thơ, trong đó có câu:

“Kính ai một đời nghiệp thanh tịnh
Nơi tâm cảnh chẳng dính mãi trần
Lâu rồi quên hẳn việc thế gian,
Hãy trông chừng tập khí nơi đất tâm.”

Lúc ấy, cư sĩ Hàn Vĩnh Xương, tổng bí thư chánh phủ đương thời, sau khi đọc bài thơ của tôi, liền khắc lên đá cuộc đời của tỳ kheo ny Diệu Tịnh cùng bài thơ lưu kệ của bà.

(Lưu kệ ký của tỳ kheo ni Diệu Tịnh:

Tỳ kheo ny Diệu Tịnh, tên tục Vương Thị, là mẹ kế của Vân Công (hòa thượng Hư Vân). Vân Công pháp danh Cổ Nghiêm tự Đức Thanh hiệu Hư Vân, người Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, tên tục là Trai, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế. Cha tên Ngọc Đường, làm quan tại phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Mẹ họ Nhan, tuổi ngoài bốn mươi mà chưa có một mụn con, nên cầu nguyện Bồ Tát Quán Ấm, ban con cho. Cha mẹ mộng thấy một vị trưởng lão mặc y màu xanh, đầu đội tượng Quán Ấm, thân cỡi hổ, nhảy lên giường nằm. Mẹ kinh sợ tỉnh dậy, nghe mùi hương lạ bay khắp phòng, liền thọ thai Vân Công. Sau đó sanh ra một bọc thịt. Mẹ Ngài thất vọng ê chề, uất khí mà mất. Hôm sau, một lão bán thuốc đến nhà, lấy dao rạch bọc thịt ra được một bé trai trân quý chính là Vân Công. Từ đó Ngài được người mẹ kế săn sóc nuôi nấng. Vân Công tánh vốn không ăn thịt. Khi lớn lên, được học hành nhưng không thích Nho giáo mà chỉ thích giáo lý nhà Phật, làm cha không vui, nên bị nghiêm trách. Năm mười bảy tuổi, theo định ước, cha cưới hai cô gái là Điền Thị và Đàm Thị, nhưng Vân Công chưa hề nhiễm sắc dục. Ngài trốn lên núi Cô Sơn, tỉnh Phúc Kiến, lễ hòa thượng Diệu Liên làm thầy xuống tóc xuất gia. Đồng Trị năm thứ ba, cha qua đời. Bà mẹ kế dẫn hai cô dâu đi tu. Điền Thị bị bịnh phổi, ho ra máu. Bà tu được bốn năm thì bị chết vì bịnh. Đàm Thị vẫn còn sống, làm sư cô tại núi Quán Ấm huyện Tương Lương, pháp danh Thanh Tiết. Trong thơ gởi cho Vân Công, bà cho biết là ngày mồng tám tháng chạp năm Kỷ Dậu (1909/10) người mẹ kế ngồi xếp bằng, viết bài kệ rồi thị tịch, vãng sanh cõi tây phương Cực Lạc.)

Tuyên Thống năm thứ 3, 72 tuổi. (1912/13)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi kiết thiền thất trong bốn mươi chín ngày đêm, đề xướng tọa hương, an cư kiết hạ, theo tất cả quy củ pháp thức. Đến tháng chín, cách mạng Vũ Hán lan tràn đến Vân Nam. Vùng địa phương bị loạn lạc, thành Tân Châu bị bao vây, bức bách nguy hại. Tôi đến điều giải. Nhân vì quan tổng binh Lý Căn Nguyên hiểu lầm nên phái binh lính đến vây núi Kê Túc. Tôi giải thích tự sự cho ông ta. Sau đó, ông cho binh lính rút lui và lại quy y Tam Bảo.

(Phần phụ chú của ông Sầm Học Lữ, người viết lại quyển biên niên tự thuật của thiền sư Hư Vân:

Quyển biên niên tự thuật này do chính thiền sư Hư Vân thuật lại bằng miệng, nhưng Ngài chỉ nói sơ lược thôi. Theo người viết lại quyển biên niên tự thuật này, khi duyệt lại quyển biệt ký tỉnh Vân Nam mới biết rõ sự việc tường tận, càng thấy ân đức của Ngài thật vô lượng. Quyển biệt ký ghi lại như sau:

Vân Công tại Vân Nam hoằng pháp độ sanh. Những tai nạn được Ngài cứu giúp, nay sơ lược kể lại:

Việc thứ nhất là trong năm cuối triều vua Tuyên Thống, quan tri huyện Tân Xuyên họ Trương, người Trường Sa, tánh tình nóng nảy. Nhân huyện Tân Xuyên bị trộm cướp liên miên, họ Trương trừng trị thẳng tay, giết rất nhiều người, mà trộm cướp lại còn tăng nhiều hơn trước. Chúng cùng nhau kết hội đảng. Các thân sĩ vì muốn bảo vệ gia đình nên phải gia nhập vào các hội đảng, nên bị họ Trương trừng trị giết hại. Tăng nhân núi Kê Túc, những ai không tu đúng theo pháp cũng bị bắt cả vài mươi người, chỉ có Vân Công luôn được họ Trương cung kính lễ bái. Khi cách mạng Tân Hợi bộc phát, huyện Tân Xuyên hưởng ứng đầu tiên. Quần chúng kéo đến bao vây dinh huyện. Họ Trương cố thủ, không được viện trợ bên ngoài, chỉ còn chờ chết. Vân Công xuống núi đi thẳng đến dinh huyện. Những người đang bao vây dinh huyện thấy Ngài đến liền nói: “Tên Trương này rất ác độc. Xin Ngài hãy dụ hắn ra để chúng con giết, hầu xoa dịu lòng căm phẩn của quần chúng.”

Nghe thế, Ngài không nói chi. Nhưng khi vị thủ lãnh đến, Ngài liền bảo: “Giết họ Trương không khó. Vùng biên địa này có nhiều tin đồn thất thiệt. Việc lớn chưa định đoạt được. Chư vị vây hãm thành của quan tri huyện, khi viện binh đến thì chư vị sẽ bị trừng phạt nặng nề.”

Viên thủ lãnh hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy, Ngài có lời dạy gì chăng?”

Ngài đáp: “Tôi nghe rằng Vương Công tỉnh Tứ Xuyên trên đường kinh lý, đã đến Đại Lý, tức chỉ cách đây hai ngày đường. Chư vị đến gặp Vương Công mà kể tội, thì họ Trương sẽ bị trừng trị đúng theo pháp luật, còn chư vị lại không tội vạ gì hết.”

Viên thủ lãnh nghe theo lời dạy của Ngài, đóng quân ngoài dinh huyện. Vân Công đi vào dinh huyện, thấy họ Trương phẩn uất, đang định ra ngoài dinh ứng chiến. Khi thấy Vân Công bước vào, họ Trương liền cầm tay và nói: “Con đã làm tròn bổn phận của mình. Duy chỉ làm phiền Ngài là cho con một miếng đất để xây phần mộ dưới chân núi Kê Túc. Con thật cảm ơn công đức của Ngài.”

Vân Công đáp: “Không cần thiết đâu! Thân sĩ ở đây kính trọng Trương Tịnh Hiên. Hãy mời ông ta đến bàn luận với dân chúng.”

Trương Tịnh Hiên đến nghị luận với viên thủ lãnh. Quả nhiên, sau đó quần chúng giải tán. Trương Tịnh Hiên đi thẳng đến Đại Lý gặp Vương Công xin viện binh, giải vây dinh huyện. Khi Trương Tịnh Hiên đi khỏi, tỉnh Vân Nam tuyên bố độc lập. Thái Ngạc nhậm chức đô đốc. Con của họ Trương được cử làm ty trưởng ngoại giao vì là bạn đồng học của họ Thái. Sự việc giải quyết xong, họ Trương gởi thơ đến cảm tạ Vân Công như sau: “Ngài không những cứu mạng sống con mà lại còn tạo phước cho huyện Tân Xuyên. Nếu không có Ngài thì thù cha bị giết, con mình không báo phục sao!”

Việc thứ hai lại quan trọng hơn nữa, xảy ra như sau:

Khi Dân Quốc được thành lập, ở Tây Tạng, đức Phật sống cùng vương công quần thần ỷ đất đai hiểm trở, đường xá xa xôi, không tuân lệnh theo chánh phủ đương thời treo cờ cách mạng. Chính quyền Trung Ương ra lịnh cho quân tỉnh Vân Nam do tướng Ấn Thúc Hoàn thống lãnh, kéo quân sang trị tội. Quân tiền phong đã đến huyện Tân Xuyên. Vân Công sợ rằng nếu chiến tranh xảy ra thì vùng biên cương này không thể tránh khỏi hiểm họa, nên theo đoàn quân tiền phong đến Đại Lý, gặp tướng họ Ấn. Vân Công nói: “Người Tây Tạng đều tin theo Phật pháp. Nếu bảo người nào thông hiểu Phật pháp qua Tây Tạng thương thuyết thì sẽ giải quyết được sự việc mà không cần dùng binh.”

Tướng họ Ấn đồng ý, lại mời Vân Công làm pháp sư tuyên úy. Vân Công nói: “Tôi là người Hán, đi qua đó sợ sẽ bị thất bại. Hãy thỉnh đức đạt ma hiệu là Đông Bảo, người Lạp Xuyên, là vị xuất gia lâu năm, lại có đức độ, được người Tây Tạng cung kính tín phục và tôn Ngài là Pháp Vương Tứ Bảo. Nếu vị này đi qua đó thì sự việc chắc sẽ thành công.”

Nghe thế, tướng họ Ấn viết thơ nhờ Vân Công mang đến để gặp ngài lạt ma Đông Bảo cùng phái quân tùy tùng theo hầu giúp. Mới đầu ngài lạt ma Đông Bảo khước từ, viện lý do là già yếu. Vân Công liền nói: “Thảm họa của quân Triệu Nhi Phong, người Tây Tạng cho đến nay vẫn còn run sợ. Ngài tiếc chi ba tấc lưỡi mà hại đến muôn ngàn sanh mạng dân chúng!”

Ngài Đông Bảo đứng dậy đáp: “Được! Tôi sẽ đi! Tôi sẽ đi!”

Ngài lạt ma Đông Bảo thọ nhận mệnh lệnh đi Tây Tạng. Cùng đi với ngài Đông Bảo là lão hòa thượng Pháp Ngộ. Sau khi qua Tây Tạng, họ ký hòa ước rồi trở về. Tại Vân Nam, tướng họ Ấn liền bãi binh. Dân quốc thống nhất thành một khối. Bao năm Hán-Tạng luôn xích mích, chiến tranh thống khổ không ngừng, đến nay tạm điều giải. Hòa bình an lạc mãi trong ba mươi năm.

Việc thứ ba là sau khi Vân Công thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, Ngài luôn ban bố Phật pháp, giáo hóa chúng dân. Quan dân sĩ thứ vùng địa phương ngày càng thêm kính trọng. Cho đến cô nhi quả phụ, ai ai cũng gọi Ngài là lão hòa thượng Hư Vân. Cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh thoái vị. Các tỉnh trưởng đuổi tăng ni, phá chùa chiền, làm mưa gió một thời. Lúc ấy, vị tướng tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên, vì ghét vài ông tăng không chịu giữ giới luật, nên định kéo quân lên núi đuổi tăng chúng, phá chùa chiền. Khi sắp lên núi, ông hỏi quan quân địa phương là tại sao Vân Công, một lão tăng nghèo hèn, mà lại thâu phục được lòng dân chúng, chắc có việc chi kỳ quái. Vì vậy, ông ra lệnh bắt giam Ngài. Thấy việc không may, hiểm họa sắp đến, tăng chúng các chùa đều bỏ trốn đi cả. Trên một trăm vị tăng còn ở lại với Ngài, tất cả đều lo sợ, lại khuyên Ngài hãy đi lánh nạn. Vân Công đáp: “Các vị muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẫn trốn có ích chi? Tôi sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp.”

Toàn thể đại chúng an lòng ở lại với Ngài. Vài ngày sau, quả nhiên nhiếp tướng Lý Căn Nguyên thống lãnh quân sĩ tiến lên núi, đóng quân tại chùa Tất Đàn, phá tượng đồng Đại Vương, tượng Phật, điện chư Thiên tại Kim Đảnh, núi Kê Túc. Vì việc cấp bách nên Vân Công một mình đơn độc xuống núi, đi thẳng vào trại lính, đưa thẻ trình cho lính gác cổng. Lính gác nhận diện được nên bảo Ngài hãy mau trốn đi chỗ khác, nếu không thì chỉ chuốc lấy tai họa, chắc sẽ bị giết hại. Vân Công không quay về, lại tự đi thẳng vào doanh trại, thấy Lý Căn Nguyên cùng quan bố chánh Triệu Phiên đang ngồi trong nội điện. Vân Công tiến đến trước mặt họ làm lễ. Họ Lý vẫn không quay mặt lại nhìn Ngài. Vì Triệu Phiên đã từng quen biết Vân Công thuở trước, liền hỏi Ngài đến để làm gì. Vân Công trần thuật mọi sự việc. Lúc ấy, họ Lý với sắc mặt nóng giận, nghe thế liền hỏi: “Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi?”

Vân Công đáp: “Ấn đức giáo hóa của thánh nhân thật vô lượng. Nói rộng ra, Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác… Từ xưa, chánh quyền và tôn giáo cùng lập hạnh. Chánh quyền lo việc trị an cho dân chúng. Tôn giáo lo dạy dỗ chúng dân làm lành lánh ác… Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Gốc nếu chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình.”

Sắc mặt họ Lý dịu xuống đôi chút, lại hỏi: “Vậy còn tượng đồng tượng gỗ để chi vậy, chỉ tốn hao tiền của thôi chứ gì?”

Vân Công đáp: “Lời Phật là tướng của pháp. Tướng biểu hiện Pháp. Nếu không có tướng biểu hiện thì người dân không thể biết đến Pháp, hoặc họ không khởi tâm cung kính nể sợ. Đối với con người, tâm nếu không cung kính, thì việc ác nào cũng dám làm, tạo thành họa loạn. Những tôn tượng trong chùa chiền ở Trung Quốc thường được tạo bằng đất đá gỗ mộc, cũng giống như các tượng đồng ở các nước Đông Tây. Nói theo thế gian, những tôn tượng này, bất quá chỉ khiến cho chúng dân có chỗ nương tựa, cùng thầm khởi tâm cung kính tín phục, diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngôn từ không chi diễn đạt. Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy đức Như Lai!”

Họ Lý nghe lời phân giải nên rất vừa lòng, liền bảo lính hầu mang trà bánh ra đãi Ngài. Họ Lý lại hỏi: “Nếu thế, tại sao các thầy tu thay vì làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội?”

Vân Công đáp: “Hòa thượng chỉ là danh xưng, có phàm có thánh, sai biệt rõ ràng; không thể thấy một hai ông thầy hư đốn mà lại khinh khi toàn tăng chúng. Không thể phỉ báng Khổng Tử chỉ vì một hai người nho sinh hư hoại. Như nay tiên sinh thống lãnh binh sĩ. Tuy kỷ cương quân đội nghiêm minh mà có phải mỗi mỗi binh lính đều thông minh chánh trực như Ngài đâu! Biển cả bao la vì chứa đựng muôn loài, không phân biệt cá tôm. Tánh Phật pháp rộng như biển cả, không chi không dung chứa. Chư Tăng nhậm thừa lời Phật dạy, hộ trì Tam Bảo, ẩn mật lạ kỳ, âm thầm hóa độ chúng sanh, diệu dụng rõ ràng, không phải là những người phế thải!”

Sắc mặt họ Lý vui lên, lại cùng Vân Công trò chuyện. Chốc lát nét mặt ông nở một nụ cười. Chốc lát ông lại cúi đầu cung kính. Họ Lý giữ Vân Công lại để dùng cơm tối, đốt đuốc đàm đạo; lời nói cùng ví dụ rõ ràng, lý lẽ thâm sâu; bàn luận từ nhân duyên nghiệp quả, cho đến lưới nghiệp giao thức, cùng chúng sanh tương tục.

Họ Lý tiếp nhận hết tất cả lời lẽ và rất cung kính dung mạo oai nghi của Vân Công. Ông chợt thốt ra lời than: “Phật pháp cao siêu như thế mà con lại giết tăng phá chùa. Ôi nghiệp tội nặng vô cùng. Vậy con phải làm sao?”

Vân Công đáp: “Đó chỉ do tánh khí nhất thời thúc đẩy, không phải là tội của Ngài. Xin hãy nguyện sau này, hết sức hộ trì Tam Bảo. Vậy, công đức to lớn biết chừng nào!”

Tướng họ Lý vui mừng hớn hở. Hôm sau, ông theo Vân Công đến chùa Chúc Thánh, sống lẫn lộn với tăng chúng, ăn cơm chay vài ngày. Khi ấy, trên núi bỗng hiện ra một luồng ánh sáng màu vàng, bay từ đảnh núi xuống chân núi. Màu sắc cây cỏ đều biến thành màu vàng kim. Tương truyền trong núi có ba loại ánh sáng: Một là ánh sáng của chư Phật. Hai là ánh sáng màu trắng bạc. Ba là ánh sáng màu vàng. Ánh sáng của chư Phật, hằng năm đều hiện rõ, còn ánh sáng màu trắng bạc và màu vàng thì từ lúc khai sơn đến nay, ít có hiện ra. Họ Lý cảm động vô cùng, nguyện làm đệ tử Vân Công, lại thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc, rồi dẫn quân rời khỏi núi. Việc này, nếu không phải do đức tu hành khổ hạnh của Vân Công thì làm sao chuyển tâm được viên tướng họ Lý trong khoảng sát na!)

Mùa đông, hội Phật giáo Đại Đồng tại Thượng Hải và hội Phật giáo Trung Quốc có sự tranh biện nên đánh điện tín đến Vân Nam, mời tôi lên hòa giải. Đến Thượng Hải, tôi gặp các thầy Thái Hư, Phổ Đường, Nhân Sơn, Đế Nhàn, cùng nhau thương thuyết hòa giải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo. Tôi cùng hòa thượng Kỳ Thiền đi Bắc Kinh, trú tại chùa Pháp Nguyên. Hoà thượng Kỳ Thiền đột nhiên nhuốm bệnh rồi ngồi xếp bằng thị tịch. Tôi đứng ra tổ chức lễ an táng, đem linh cữu về Thượng Hải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi khai mở đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo cùng làm lễ truy điệu an táng Kỳ Thiền thiền sư. Tôi nhận lãnh công văn hai tỉnh Vân Nam và Quí Châu cùng công văn chi hội hai miền Vân Nam-Tây Tạng. Khi sắp trở về Vân Nam thì Lý Căn Nguyên gỏi thơ giới thiệu đến tỉnh trưởng Vân Nam, tức Thái Tùng Ba, và chư vị quan chức các tỉnh để hộ trì Phật pháp.

(Đại sự trong năm: Mồng chín tháng tám, dân quân khởi nghĩa tại Võ Xương. Tháng mười một, hạ thành Nam Kinh.)

 Trung Hoa Dân Quốc nguyên niên, 73 tuổi. (1912/13)

Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương, lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.

Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt, nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào, mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ. Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?

Tôi ở lại chùa Côn Minh qua mùa đông.

(Đại sự trong năm: Mồng một tháng giêng, tiên sinh Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng Thống lâm thời tại Nam Kinh. Tháng hai, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị. Nhà Mãn Thanh mất. Tham nghị viện đồng cử Viên Thế Khải nhậm chức phó tổng thống lâm thời. Tỉnh trưởng tỉnh Tây Xuyên, Duẩn Xương Hành, định đem quân vào Tây Tạng.)

Dân Quốc năm thứ 2, 74 tuổi. (1913/14)

Vừa thành lập chi hội Phật giáo miền Vân Nam-Tây Tạng, liền ghi nhận tất cả tài sản chùa chiền tự viện trong vùng và dự trù hoạch định những chương trình mới. Những việc trên đòi hỏi phải tường trình với chính quyền địa phương. Có quan trưởng ty dân chánh là La Dong Hiên, thường gây rất nhiều trở ngại, khiến chúng tôi khó tiến hành, làm những việc đã được hoạch định. Khi ấy, tỉnh trưởng Thái Tùng Ba thường đến hòa giải, nhưng không kết quả. Đức Phật sống cùng các hội đoàn địa phương thỉnh tôi đi Bắc Kinh mang việc này trình lên chính quyền trung ương. Gặp quan tổng lý nội các, Hùng Hi Linh, trợ giúp rất nhiều, lại thuyên chuyển La Dong Hiên trở về Bắc Kinh. Nhậm Khả Đăng được đưa về làm dân biểu. Tôi trở về Vân Nam. Họ Nhậm đối với những sự việc liên hệ đến Phật giáo đều tận tình giúp đỡ.

(Đại sự trong năm: Tháng mười, Viên Thế Khải cùng Lê Nguyên Hồng chánh thức được cử làm phó tổng thống.)

Dân Quốc năm thứ 3, 75 tuổi. (1914/15)

Tỉnh trưởng Thái Tùng Ba được vời về Bắc Kinh. Tướng họ Đường được cử thay thế chức tỉnh trưởng.

Tôi muốn về lại núi Kê Túc hưu dưỡng, nên giao chức đại biểu chi hội Phật giáo lại cho các vị khác rồi trở về núi. Vừa về đến, tôi liền lo việc trùng tu chùa Hưng Vân, chùa La Thuyên tại Hạ Dương. Đốc thúc lo liệu công trình xây cất sửa chữa xong, chư sơn trưởng lão tại Hạc Khánh thỉnh tôi đến chùa Long Hoa giảng kinh. Hòa thượng Chánh Tu thỉnh tôi qua chùa Kim Sơn tại Lệ Giang giảng kinh. Giảng xong, tôi ghé thăm động Thái Tử tại Tuyết Sơn, Duy Tân, Trung Điện, A Đôn Tử cùng các danh lam thắng cảnh khác. Lại đến vùng biên giới Trung-Tạng, tham quan ba mươi ngôi chùa Lạt Ma lớn nhỏ.

Năm đó, khi đang giảng kinh tại núi Long Hoa thì bốn huyện trong phủ Đại Lý bị nạn động đất rất kinh hồn. Nhà cửa, phòng xá, thành quách đều bị sập, duy trừ bảo tháp của chùa là không bị chi hết. Lúc chấn động, đất nứt ra, lửa cháy lan tràn, người người tranh nhau mà chạy thoát mạng, nhưng hầu như mỗi tấc đất đều rạn nứt, nên họ bị té lọt xuống. Muốn trèo lên khỏi thì đất liền khép lại, cắt đứt thân mình, chỉ thấy đầu người nằm la liệt trên đất. Bãi tha ma này như địa ngục lửa sôi trong kinh Phật, thật rất thê thảm, không dám nhìn xem. Trong thành có khoảng một ngàn căn nhà, hầu hết đều bị nạn động đất, chỉ còn sót lại vài căn. Khi ấy, có một tiệm kim hoàn của hai gia đình: Một là họ Triệu, tên Vạn Xương Hiệu. Hai là họ Dương, tên là Thâm Nhiên Hiệu. Lửa cháy đến tiệm của họ lại dừng. Cửa tiệm chưa hề bị hư hoại vì nạn động đất. Trong mỗi gia đình, có trên mười người. Tất cả đều được bình an vô sự. Vài người trong vùng biết đến hai gia đình này. Trãi qua bao đời, họ đều ăn chay niệm Phật. Đấy là những người lành thiện, mẫu mực mới tránh được những thiên tai hoạn nạn như thế. Tôi thật rất vui mừng.

(Đại sự trong năm: Đại chiến Ấu Châu bùng nổ.)

Dân Quốc năm thứ 4, 76 tuổi. (1915/16)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh, có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha: “Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!”

Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!

Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: “Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!”

Quỷ đáp: “Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!”

Tăng nói: “Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi, nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?”

Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: “Thầy của chư vị là ai?”

Tăng đáp: “Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh.”

Quỷ nói: “Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?”

Tăng đáp: “Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?”

Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.

Quỷ nói: “Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!”

Tăng đáp: “Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?”

Quỷ nói: “Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!”

Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.

Quỷ nói: “Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi, nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó.”

Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Nhật Bổn ép bức Trung Quốc thừa nhận hai mươi mốt điều ước. Tháng chạp, Viên Thế Khải tuyên bố đế chế, đổi hiệu là Hồng Hiến nguyên niên.)

Dân Quốc năm thứ 5, 77 tuổi. (1916/17)

Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang cúng dường tượng Ngọc Phật đến nay đã vài năm. Tôi trở lại Nam Dương để thỉnh tượng Phật về. Nghe có nhiều người dân thuộc sắc tộc khác Hán tộc tin tưởng Phật pháp, nên tôi đi qua tham quan các vùng đất của họ như Thường Đạt Miến, Oa Tán, Lạp Tán, rồi lại trở về Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim, thăm Cao cư sĩ. Tại chùa Long Hoa, giảng kinh xong, tôi đón tàu đi Tân Gia Ba. Tàu đến cảng Tân Nhai, một viên cảnh sát người Anh nói: “Hiện nay tại Trung Quốc, đại Tổng Thống đang thiết lập đế chế, ra lịnh bắt giữ tất cả những tên nổi loạn. Mọi người Hoa lục địa, qua đến đây, phải được kiểm soát chặt chẽ, rồi sau mới cho lên bờ.”

Vài trăm người được đưa đến ty cảnh sát tra hỏi. Sau đó, từ từ họ đều được thả ra hết, nhưng trù nhóm người chúng tôi, gồm có sáu vị tăng. Họ bảo rằng chúng tôi thuộc đảng cách mạng, nên giữ lại. Họ trói chúng tôi lại, rồi đánh đập, đem phơi nắng, không cho ăn uống, không cho đi đại tiểu tiện, không cho cử động, nếu nhúc nhích liền bị đánh; cứ như thế từ sáu giờ sáng cho đến tám giờ tối. May thay, có đệ tử quy y của tôi là Hồng Thịnh Dương và ông quản lý họ Đổng, nghe biết tình cảnh của chúng tôi, nên đến ty cảnh sát bảo lảnh, nhưng phải đóng tiền thế chân là năm ngàn đồng cho mỗi người, rồi mới được thả ra. Sau đó, chúng tôi được đưa về thương hiệu Thịnh Dương, lưu trú qua năm mới. Hai vị cư sĩ này cũng giúp tôi việc mang tượng Ngọc Phật về nước.

(Đại sự trong năm: Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ 6, 78 tuổi. (1917/18)

Mùa xuân, từ đình Quán Ấm, tôi vận chuyển tượng Phật về nước, mướn tám người phụ giúp mang về núi Kê Túc. Tiền mướn họ khoảng cả ngàn đồng. Đoàn chúng tôi phải đi qua các vùng đồi núi hẻo lánh, cheo leo chập chùng, chưa từng có dấu chân người. Đi như thế cả vài mươi ngày. Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhân, những người khuân vác nghi rằng trong tượng Ngọc Phật có vàng bạc châu báu hay ngân phiếu, nên họ đặt tượng Phật xuống, nói rằng không còn sức để khiêng tượng Phật nữa, lại đòi trả tiền thêm tiền công. Tôi cố an ủi, nhưng họ càng làm ồn ào, hung tợn thêm. Biết không còn cách nào để làm cho họ dịu xuống, nhìn bên đường thấy tảng đá to, nặng khoảng vài trăm cân, tôi bảo bọn họ: “Tảng đá này cùng tượng Phật, vật nào nặng hơn?”

Họ đáp: “Chắc chắn là tảng đá nặng hơn tượng Phật hai ba lần.”

Tôi liền dùng hai tay nâng tảng đá lên cả thước. Bọn họ trố mắt thè lưỡi và nói: “Lão Hòa Thượng này thật là Phật sống!”

Từ đó, họ không còn dám nói năng chi hết, khiêng tượng Ngọc Phật đi thẳng về núi. Đến núi, tôi cũng thưởng thêm tiền cho họ. Tôi tự biết sức mình không thể nâng nỗi tảng đá đó, mà thật ra chỉ nhờ thần lực của Long Thần hộ pháp thôi.

Sau đó tôi đi Đằng Xung, Bảo Sơn giảng kinh tại các chùa viện.

Dân Quốc năm thứ 7, 79 tuổi. (1918/19)

Đề đốc Đường Kế Nghiêu phái tùy viên đem thơ đến, ra lịnh cho quan tri huyện Tân Châu đồng lên núi, thỉnh mời tôi ba lần. Bất đắc dĩ lắm, tôi mới đáp lời mời của ông ta để đi Côn Minh. Khi ấy, đường lộ rất nguy hiểm, nên quan huyện phái quân lính đến hộ tống. Tôi từ chối, chỉ đem theo đệ tử là Tu Viên. Một bộ tăng y cùng một bình bát, chúng tôi khởi hành. Khi đến Sở Hùng, gặp loạn quân, họ khám xét kỹ càng. Vì tìm thấy lá thơ của đề đốc họ Đường, nên họ liền đánh tôi. Tôi nói: “Chư vị đánh tôi làm gì. Xin cho tôi gặp tướng thủ lãnh của chư vị.”

Họ liền đưa tôi đến gặp hai thủ lãnh, Dương Thiên Phúc và Ngô Học Hiển. Họ hỏi: “Thầy là ai?”

Tôi đáp: “Tôi là hòa thượng núi Kê Túc.”

Hỏi: “Thầy tên chi?”

Đáp: “Tôi tên Hư Vân.”

Hỏi: “Thầy lên tỉnh lỵ có việc gì?”

Đáp: “Tôi lên tỉnh lỵ để làm Phật sự.”

Hỏi: “Làm Phật sự cho ai?”

Đáp: “Tôi vì nhân dân mà làm Phật sự. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho dân chúng được tiêu trừ thiên tai hoạn nạn.”

Hỏi: “Họ Đường là thằng giặc, kẻ tồi bại. Tại sao Thầy lại giúp hắn. Thầy qua lại với hắn. Vậy Thầy cũng là người tồi bại!”

Đáp: “Ngài nói họ Đường là người xấu, thật rất khó xác định!”

Hỏi: “Tại sao khó xác định?”

Đáp: “Nói về việc tốt thì mọi người đều tốt cả. Nói về việc xấu thì mọi người đều xấu hết.”

Hỏi: “Thầy nói cái gì?”

Đáp: “Giả sử Ngài cùng họ Đường vì dân vì nước mà tạo phước, cho đến các thuộc hạ của chư vị cũng thế, thì ai ai cũng là người tốt hết. Nói về việc xấu, Ngài bảo họ Đường là kẻ tồi bại, mà ông ta cũng bảo rằng các Ngài là kẻ tồi bại. Chư vị đều có thành kiến, như nước với lửa, cùng đem quân giết hại lẫn nhau, lại sát hại nhân dân. Như vậy có phải chư vị đều là người xấu hết phải không? Nhân dân theo bên tả là giặc, mà theo bên hữu là cướp. Vậy đáng thương họ lắm không?”

Cả hai thủ lãnh nghe tôi phân trần đều cười và bảo: “Thầy nói thế không sai. Vậy phải làm thế nào mới đúng?”

Tôi đáp: “Theo ý tôi thì chư vị đừng nên đánh nhau nữa. Xin hãy hòa giải.”

Họ Ngô nói: “Thầy bảo chúng tôi phải đầu hàng ư?”

Tôi đáp: “Không phải như thế! Tôi nói rằng chư vị hãy nên hòa giải kia. Chư vị đều là những người hiền sĩ của đất nước. Nếu muốn đem hòa bình an lạc lại cho quốc gia, việc quan trọng trước nhất là chư vị hãy dẹp bỏ thành kiến, để cùng nhau an dân cứu nước. Đó có phải là việc tốt lắm không?”

Họ Ngô đáp: “Vậy phải bắt đầu như thế nào?”

Tôi đáp: “Bắt đầu với họ Đường.”

Họ Ngô nói: “Không thể thương lượng với hắn được. Hắn giết hại và giam cầm quân chúng tôi rất nhiều. Phải nên báo thù. Nói việc ra hàng, thì làm sao chấp nhận được.”

Tôi đáp: “Tiên sinh chớ hiểu lầm! Tôi nói Ngài nên thương thuyết với họ Đường, vì hiện giờ ông ta là quan của chính quyền trung ương, có quyền uy trong tay. Tương lai Ngài cũng có thể làm quan vậy. Việc ông ta giết nhiều người của Ngài, để khi đến Côn Minh, tôi sẽ làm Phật sự, cầu siêu cho các âm hồn chiến sĩ trận vong. Đối với những người đang bị nhốt, tôi sẽ xin ông ta thả ra hết. Chư vị nếu không lắng nghe lời tôi giải bày, cứ gây chiến tranh với nhau, thì thắng bại khó bàn. Tuy có quân, nhưng so với họ Đường thì chư vị không thể sánh bằng. Ông ta có quân lính, tiền tài lương thực, và được chính quyền trung ương hỗ trợ. Uy thế của ông ta mạnh hơn chư vị rất nhiều. Hôm nay, không phải tôi đến đây khuyên chư vị ra hàng, nhưng vì thuận tiện cùng có chút duyên lành, nên mới tỏ rỏ sự tình. Lại nữa, tôi chỉ ước mong đất nước được thanh bình, nhân dân an lạc, để người ngoại quốc không khinh dân tộc mình.”

Họ Ngô và họ Dương đều cảm động, lại ủy thác tôi làm đại biểu. Tôi nói:

“Không dám đâu! Xin chư vị hãy viết một tờ hòa ước. Nếu có cơ hội, tôi sẽ đưa thơ này và thương thuyết với họ Đường.”

Hai họ Ngô và Dương nghe xong, liền cùng nhau luận bàn cả ba ngày, rồi viết ra sáu điều hòa ước:

1/ Trước khi hòa giải, hãy thả hết tất cả người của chúng tôi.

2/ Không thể giải tán quân binh của chúng tôi.

3/ Không được hủy bỏ chức vụ binh quyền của chúng tôi.

4/ Quân đội của chúng tôi phải do chúng tôi chỉ huy, tiếp quản.

5/ Không được truy xét tội lỗi chiến tranh giữa hai quân đội lúc trước.

6/ Sau khi hòa giải, phải đối xử bình đẳng với quân của hai bên.

Tôi nói: “Những hòa ước này, chắc sẽ không thành vấn đề gì đâu! Đợi tôi thương thuyết với họ Đường, rồi sau đó sẽ đem công văn và phái tùy viên đến đón tiếp.”

Họ Ngô nói: “Thật làm phiền Ngài. Sự việc nếu thành, chúng tôi cảm ơn Ngài rất nhiều.”

Tôi đáp: “Xin đừng cảm ơn! Tôi làm việc này, chẳng qua chỉ do thuận tiện mà thôi.”

Họ Ngô và Dương ưu đãi tôi rất trịnh trọng. Tối đến chúng tôi lại đàm đạo những chuyện khác, rất vui vẻ. Họ muốn giữ tôi lại, nhưng vì chuyện gấp, nên hôm sau tôi liền từ giã. Ắn sáng xong, họ cúng dường tiền lộ phí, thức ăn, xe ngựa, đồ vật, lại phái người đi theo hộ tống. Tôi khước từ hết cả, chỉ nhận đồ ăn để đi đường. Ra khỏi doanh trại khoảng nửa dặm, đột nhiên có một nhóm người chạy đến, quỳ ngay trước mặt, cúi đầu xuống đất. Nhận ra họ chính là những quân sĩ đánh tôi hôm qua. Họ đồng thanh thưa: “Xin Bồ Tát tha lỗi cho chúng con.”

Tôi an ủi họ và bảo rằng việc ác chớ làm, hãy nên làm việc lành. Tất cả họ đều cảm động, rơi lệ, rồi đi khỏi.

Khi đến Côn Minh, họ Đường phái tùy viên đến đón tiếp, đưa tôi về đài Chúc Long, chùa Viên Thông. Tối đến, ông mời tôi vào dinh trại gặp mặt. Ông nói: “Đã bao năm không được gặp Ngài. Trong thời gian ấy, bà nội, cha mẹ, vợ, anh em, đã lần lượt qua đời. Tâm con không an. Cộng thêm, bọn cướp trong vùng địa phương luôn hoành hành, làm dân lành điêu đứng, tướng sĩ thương vong, cô hồn đói rét. Vì thế, con nghĩ đến ba việc: Thứ nhất là tổ chức lễ cầu nguyện chư Phật gia bị cho dân chúng được tiêu trừ tai nạn, và cầu siêu cho các vong hồn vất vưởng. Thứ hai là kiến lập một đại tùng lâm tại chùa Viên Thông để hoằng dương Phật pháp. Thứ ba là xây một trường đại học đạo đức thiện lành để giáo dục thanh niên. Việc thứ ba đã có người của con lo liệu, còn việc thứ nhất và thứ hai, ngoài Ngài ra thì không ai có thể đảm nhận nỗi.”

Tôi đáp: “Ngài phát hoằng đại nguyện, trên thế gian này thật khó có được, vì đây là sự phát tâm của Bồ Tát. Lão tăng đây trí huệ cạn cợt, không đủ sức để giúp Ngài hết tất cả. Việc kiến lập tùng lâm, trong nước có rất nhiều chư vị cao tăng hiền đức. Lại nữa, chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm vì chỉ có thể chứa được khoảng vài trăm người thôi. Xin Ngài hãy xem xét lại. Việc lập đàn tràng cầu nguyện, không đến nỗi lâu lắm, tôi có thể giúp Ngài được.”

Họ Đường nói: “Ngài bảo rằng chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm, thật rất đúng. Xin hãy gác lại việc này. Mai mốt sẽ bàn sau, còn việc lập đàn tràng thì như thế nào?”

Tôi đáp: “Tâm Phật là một thể, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Lập đàn tràng là vì nước vì dân, cùng làm lợi ích đến cõi u minh. Theo ngu kiến của lão tăng, trước khi làm phật sự, xin Ngài ba việc: Thứ nhất là khi lập đàn tràng, trong suốt ngày, cấm dân chúng trong huyện không được giết hại loài vật. Thứ hai là hãy nên thả tù nhân ra. Thứ ba là chẩn tế cứu giúp nạn nhân chiến tranh.”

Họ Đường đáp: “Việc thứ nhất và thứ ba có thể làm được, còn việc thứ hai thì do bộ hành pháp của chính quyền trung ương quyết định. Con không thể tự ý làm.”

Tôi nói: “Việc nước rất nhiều. Chính quyền trung ương khó mà lo hết. Vấn đề này, xin Ngài hãy bàn thảo với bộ hành pháp trong tỉnh thì có thể làm được. Nếu thế thì chư thiên mới ban phước lành đến cho nước nhà.”

Họ Đường gật đầu chấp thuận.

Tôi nói thêm: “Tôi vẫn còn một việc muốn thưa với Ngài (tôi liền kể lại việc gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương trên đường). Xin Ngài hãy thả những tù nhân đó ra, để cảm hóa họ trở về với mình.”

Nghe rõ sự tình, họ Đường rất vui mừng, liền bàn thảo việc thả tù nhân và hòa giải chiến tranh.

Gần cuối năm, cư sĩ Ấu Dương, Cảnh Vô, Lữ Thu Dật, từ Thượng Hải đến, quyên góp tịnh tài cho Phật học viện Chi Na, cùng trú tại chùa Viên Thông. Họ thỉnh mời tôi giảng luận Nhiếp Đại Thừa Khởi Tín. Sau đó, tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tháng chín, chiến tranh Châu Ấu chấm dứt. Từ Thế Xương nhậm chức Tổng Thống.)

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.