Thiền Ngay Bây Giờ – Phần 2

21 A.III.vii.65, Kesamutti Sutta (Kālāma Sutta), xvi.

CHIẾC BÁNH SỮA

Có hai cậu bé rất nghèo sống bằng nghề ăn xin, lang thang hết nhà này sang nhà khác, trong phố thị cũng như trong vùng thôn quê. Một đứa trong chúng bị mù bẩm sinh nên đứa kia phải giúp đỡ nó; nhờ vậy mà chúng đi ăn xin với nhau được khắp mọi nơi.

Một hôm đứa bé mù bị bệnh. Bạn nó nói, “Thôi hôm nay cậu ở nhà nghỉ đi. Tớ sẽ đi xin cho cả hai đứa, và mang thức ăn về cho cậu.” Thế là nó ra đi.

Ngày hôm đó thật tình cờ người ta cho nó một món ăn rất ngon, đó là cái bánh khir, một loại bánh but-đinh (pudding) sữa kiểu Ấn Độ. Nó chưa bao giờ được thưởng thức món bánh này trước đây vì thế nó cảm thấy rất thích. Nó nghĩ tới người bạn mù nhưng rất tiếc là không có cái hộp nào để đựng bánh mang về cho bạn, vậy là nó đành phải ăn hết sạch.

Khi trở lại với người bạn mù của nó, cậu bé nói, “Tớ rất lấy làm tiếc, hôm nay tớ xin được một món rất tuyệt, bánh butđinh sữa, nhưng tớ không có cái hộp nào để đựng đem về cho cậu.”

Đứa bé mù hỏi nó, “Bánh but-đinh sữa ấy như thế nào?”

“Ồ, nó màu trắng. Sữa màu trắng.”

Bị mù từ lúc mới sinh, bạn nó không hiểu. “Trắng là gì?”

“Cậu không biết trắng là gì à?”

“Không, tớ không biết.”

“Trắng là phản nghĩa của đen đấy.”

“Thế đen là gì?” Nó cũng không biết đen là gì nữa.

“Ồ, cố gắng mà hiểu trắng là gì đi chớ!” Nhưng đứa bé mù không thể nào hiểu nổi. Vì thế bạn nó tìm quanh và thấy một con cò trắng, nó bắt con cò và đem lại cho đứa bé mù và nói, “Trắng giống như con cò này này.”

Không có mắt, đứa bé mù chìa tay ra để sờ con cò, “A, bây giờ thì tớ hiểu trắng là gì rồi! Nó là sự mềm mại chớ gì.”

“Không phải, không phải, nó đâu có liên quan gì với mềm. Trắng là trắng! Cố gắng mà hiểu xem.”

“Nhưng cậu nói với tớ là nó giống con cò này, tớ đã xem xét con cò rồi và thấy nó mềm quá. Vì thế bánh butđinh sữa phải là mềm nhất định. Trắng là mềm.”

“Không, bạn không hiểu. Thử lại coi.”

Đứa bé mù lại xem xét kỹ con cò, lấy tay sờ từ mỏ đến cổ, đến mình, đến chót đuôi con cò. “Ồ, bây giờ thì tớ đã hiểu. Nó cong đúng không! Bánh butđinh sữa là cong chớ gì!”

Nó không thể hiểu bởi vì nó không có thị lực để kinh nghiệm màu trắng là gì. Cũng vậy, nếu bạn không có khả năng để kinh nghiệm thực tại như nó thực sự là, thì thực tại sẽ luôn luôn cong đối với bạn.

LỜI DẠY PHỔ QUÁT CỦA ĐỨC PHẬT

Tất cả các bạn đã cùng nhau tụ hội ở đây tối hôm nay để tìm hiểu tính phổ quát của lời dạy hay giáo pháp của Đức Phật. Một vị Phật luôn luôn giảng dạy Pháp (Dhamma), không có gì khác ngoài Pháp. Và Pháp thì có nghĩa là sự thực, là quy luật của thiên nhiên hay quy luật tự nhiên, quy luật vốn có tính phổ quát. Pháp (Dhamma) không bao giờ mang tính chất bộ phái; Dhamma là quy luật phổ quát của tự nhiên. Có rất nhiều vị đạo sư cùng thời hoặc trước thời Đức Phật đã cố gắng giảng dạy pháp như ngài, nhưng họ đều không thành công.

Tôi xuất thân từ một gia đình, từ một truyền thống Ấn giáo (Hindu) rất trung kiên và bảo thủ, và vì xuất thân từ truyền thống ấy nên tôi biết rõ bối cảnh tinh thần của Ấn Độ, tôi biết rất rõ những giáo lý của nó. Lần đầu tiên khi tôi đi đến thầy tôi (tức thiền sư U Ba Khin) để tham dự một khóa thiền Vipassanā, dường như không có gì mới mẻ đối với tôi. Đức Phật dạy về giới (sīla), những người Hindu bảo thủ, và truyền thống Jain (Kỳ na giáo) của Ấn Độ, cũng xem giới là quan trọng. Đức Phật dạy định (samādhi), làm chủ tâm, thì tôi thấy điều này cũng có rồi. Mỗi truyền thống đều dạy cách làm thế nào để kiểm soát tâm, làm thế nào để tu tập làm chủ đối với tâm. Đức Phật dạy tuệ (pađđā); và nó dường như cũng không mới đối với tôi. Trong truyền thống tôi xuất thân, người ta phải tu tập để thanh tịnh tâm – để thoát ra khỏi rāga, nghĩa là tham ái; để thoát ra khỏi dosa hay sân hận; để thoát ra khỏi moha, tức si mê. Chẳng có gì là mới, nhưng mọi thứ lại rất mới. Mỗi bước tôi bước đều kỳ diệu.

Tại sao? Hãy để tôi giải thích tại sao.

Giống như nhiều bậc đạo sư khác, Đức Phật cũng dạy về giới, ngũ giới (pađca sīla), và giống như họ, bằng nhiều cách khác nhau, ngài cũng giải thích lý do tại sao người ta nên giữ giới. Bạn không nên sát sanh. Tại sao bạn không nên sát sanh? Nếu ai đó đi đến và muốn giết bạn, bạn chắc chắn không thích điều đó. Những gì bạn không thích, người khác cũng không thích. Vì thế hãy tránh những hành động nào mà, nếu người khác thực hiện đối với bạn, bạn không thích. Bạn không nên làm một điều gì gây thiệt hại và tổn thương cho người khác. Do đó chớ sát sanh.

Nếu ai đó lấy cắp vật gì của bạn, bạn sẽ không thích. Tất nhiên đây là điều không ai thích cả. Vì thế đừng lấy vật gì của người khác, nhất là những vật thân quý đối với họ. Bạn không trộm cắp bởi vì bạn không thích mình bị trộm cắp vậy.

Nếu một người nào phạm tội cưỡng hiếp hay thông dâm với một người trong gia đình bạn, bạn không thích điều đó. Vì thế bạn không nên làm những việc như vậy.

Một người nào đó nói dối hay đánh lừa bạn. Bạn không thích. Bởi thế, bạn không nên làm một điều gì tương tự mà người khác không thích như thế. Các bạn có thể đồng ý với bốn giới vừa kể- “Vâng, tôi hiểu, tôi không nên sát sanh. Tôi không nên trộm cắp. Tôi không nên phạm vào những tà hạnh. Tôi không nên nói dối. Thế nhưng khi bạn say sưa bạn có thể phạm cả bốn giới này. Bạn bất lực. Bạn là kẻ nô lệ của các chất say. Bạn không còn là chủ nhân của mình. Bởi thế đừng dùng bất kỳ một loại chất gây say nào. Thật kỳ diệu!

Cách giải thích khác: Nếu bạn không phạm vào một giới nào, sau khi chết bạn sẽ sanh lên cõi trời này hay cõi trời nọ.

Thật kỳ diệu, có phải không?

Cách khác: bạn là một con người và mỗi người phải sống trong xã hội. Một người gia trưởng còn phải sống với những thành viên trong gia đình của mình. Cho dù một người nào đó có từ bỏ đời sống gia chủ, họ vẫn phải tiếp xúc với xã hội. Là một thành viên của xã hội bạn không nên làm một điều gì gây xáo trộn sự bình an và hòa hợp của xã hội. Bạn không thể hưởng được sự bình an và hòa hợp nếu quanh bạn hoàn toàn không có bình an và hòa hợp. Nếu bạn muốn sống một cuộc sống bình an và hòa hợp, điều đó có nghĩa là bạn phải khuyến khích sự bình an và hòa hợp chung quanh bạn. Nếu bạn bị vây quanh bởi lửa, đừng nghĩ rằng bạn sẽ không bị khổ bởi lửa ấy. Cái nóng của lửa sẽ làm cho bạn khổ sở. Nếu bạn muốn bình an, thì đừng làm điều gì bằng thân hay khẩu vốn sẽ gây xáo trộn sự bình an và hòa hợp của những người khác, vốn sẽ gây thiệt hại và tổn thương cho người khác. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!

Người ta vẫn tiếp tục được nghe những lời giảng như vậy, nhưng họ nghe tai này, và ra tai kia. Điều này đã xảy ra với hầu hết các tôn giáo. Tất nhiên ở đây chúng ta không chỉ trích giáo lý của các tôn giáo khác mà chỉ cốt để hiểu ra sự khác nhau mà thôi. Một người say biết rất rõ rằng uống rượu là điều không tốt đối với họ. Họ muốn thoát khỏi nó. Một người cờ bạc hiểu rằng cờ bạc là việc chẳng tốt lành gì. Họ cũng muốn thoát khỏi nó; thế nhưng khi cơ hội đến, họ không kiểm soát được mình. Họ lại phạm vào chính cái điều họ không muốn ấy. Thường thì người ta hiểu rằng họ không nên làm điều này điều nọ, tuy vậy họ vẫn là kẻ nô lệ cho chính cái tâm của họ, bởi vì họ không làm chủ được tâm.

Vì thế bước kế tiếp là tu tập định (samādhi), làm chủ tâm. Một lần nữa, lời dạy về samādhi, hay định không chỉ là độc quyền của Đức Phật. Các bậc đạo sư đương thời với ngài cũng dạy định. Trước khi thành Phật, chính Đức Phật đã từng đến với hai vị thầy, Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta, từ nơi hai vị này ngài đã học được kỹ thuật thiền định rất sâu lên đến tầng thiền (jhāna) thứ bảy (Vô Sở Hữu Xứ) và thứ tám (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ). Vì thế định đã được dạy trước thời của ngài. Mặc dù các loại phù hành thiền định đã có trước, lời dạy của Đức Phật về phương diện này vẫn có cái khác kỳ diệu của nó. Có lẽ không thể có sự so sánh giữa định thế gian hay thiền hiệp thế (lokiya-jhāna) mà người ta thực hành thời đó, và những gì ngài đã phát triển và giảng dạy cho người khác, thiền siêu thế (lokuttara jhāna).

Về phương diện tuệ (pađđā) cũng thế. Tâm này, thân này, vốn bao gồm toàn bộ lãnh vực cảm quan, là vô thường, anicca, anicca. Thân tâm này không thể là một nguồn hạnh phúc đối với chúng ta. Nó chỉ là cội nguồn của khổ, dukkha, dukkha. Hiện tượng (thân tâm) này không phải là “Ta”, không phải “của ta”, không phải “tự ngã của ta.” Anatta (vô ngã). Đối với nhiều người thì đây dường như là đóng góp của Đức Phật. Song không phải như vậy. Ngay cả vào thời Đức Phật chúng ta đã gặp những trường hợp có người không phải là đệ tử của Đức Phật tới tham vấn ngài và ngài đặt câu hỏi với họ, “Kim mannasi? Ông nghĩ thế nào về hiện tượng danh và sắc (tâm – thân) này? Nó là thường (nicca) hay vô thường (anicca)? Và người nghe trả lời, “Thưa Tôn giả, vô thường.” “Danh sắc này khổ hay lạc?” và họ trả lời, “Khổ – dukkha”. “Danh sắc này là tôi, của tôi, tự ngã của tôi, hay không phải là tôi, không phải của tôi, không phải tự ngã của tôi?” “Nó không phải là tôi, không phải của tôi, không phải tự ngã của tôi – nó là vô ngã, anatta”. Người ấy là Bāhiya (một du sĩ ngoại đạo), không phải đệ tử của Đức Phật, tuy thế ông vẫn đưa ra được những câu trả lời này. Vậy thì cái gì là đóng góp kỳ diệu của Đức Phật?

Đầu tiên Đức Phật hỏi người này, “Kim mannasi? Ông nghĩ (hay tin) thế nào? Nó có vô thường không? Nó có Khổ không? Nó có vô ngã không? Và người này đã trả lời, “Vâng, cái này (danh sắc) là vô thường. Danh sắc này là khổ, là vô ngã. Và rồi Đức Phật nói tiếp, “Evam passa (Nhờ quan sát nó là như vậy, ta giải thoát khỏi khổ đau). Chỉ đơn thuần tin thôi sẽ không giúp ích gì cho bạn. Passa: ông hãy quan sát thực tại; và với sự quan sát ấy ông, jana: kinh nghiệm trực tiếp, lúc đó ông sẽ hiểu được đây là vô thường – anicca, đây là khổ – dukkha, đây là vô ngã – anatta.” Sự tuyệt diệu của giáo pháp Đức Phật nằm ở đây.

Thuyết pháp như vậy thật dễ dàng và nghe pháp còn dễ dàng hơn nữa. “Chúng ta hãy nói về Pháp (Dhamma) và lắng nghe những lời dạy của Pháp.

Tuyệt diệu thay! Giáo pháp của Đức Phật thật tuyệt diệu thay! “Với cách thuyết pháp và nghe pháp như vậy, người ta trở thành một kẻ ngưỡng mộ Đức Phật, trở thành một người sùng kính Đức Phật, nhưng không nhất thiết phải trở thành một tín đồ của Đức Phật. Đi theo con đường của Đức Phật, passa-yana: bằng Vipassanā hay Minh sát bạn tự mình kinh nghiệm sự thực, kinh nghiệm quy luật tự nhiên. Lúc đó bạn sẽ hiểu và sự hiểu biết đó mới là trí tụê của bạn. Ngược lại đó chỉ là trí tuệ của Đức Phật, một trí tuệ vay mượn, chứ không phải của bạn.

Mỗi cá nhân phải phát triển trí tuệ của mình. Mỗi cá nhân phải phát triển sự giác ngộ của chính mình. Trí tuệ mà Siddhatta Gotama (Sĩđạtđa Cồđàm) phát triển chỉ giúp được một người, và người đó là Siddattha Gotama, chứ không phải ai khác. Con người này trở thành bậc giác ngộ viên mãn bởi vì ngài đã tự mình phát triển trí tuệ. Những người khác có thể có được nguồn cảm hứng, những người khác có thể có được sự chỉ dẫn: “Đây là cách Đức Phật đã thực hành, và đây là cách ngài trở thành Phật (Buddha – bậc Giác Ngộ).” Song mỗi cá nhân phải bước từng bước trên đạo lộ để đạt đến mục tiêu cuối cùng.

Nếu tôi không bước bước nào trên đạo lộ mà chỉ tiếp tục cầu nguyện, “Lạy Phật – Ôi Đức Phật kỳ diệu,” Tôi chỉ tiếp tục ngưỡng mộ Đức Phật – “Ôi Đức Phật kỳ diệu, ôi Giáo Pháp (Dhamma) kỳ diệu”. Điều đó chẳng lợi ích gì cả. Tôi có thể tiếp tục cầu nguyện suốt cuộc đời tôi. Tôi có thể tiếp tục ngưỡng mộ Đức Phật và Giáo Pháp suốt cuộc đời tôi. Nhưng nếu tôi không thực hành Pháp, tôi sẽ không gặt hái được những quả báu của Pháp. Đây là khác biệt cơ bản giữa lời dạy hay giáo pháp của Đức Phật và lời dạy của các bậc đạo sư khác.

Bởi vì tôi xuất thân từ một truyền thống đặc biệt, mọi thứ mà tôi học từ thầy tôi (ngài U Ba Khin) ở mức lý thuyết chẳng có gì là mới đối với tôi. Nhưng ở mức thực hành truyền thống của tôi không có gì mới để đưa ra. Sau đó tôi còn nhận thấy rằng không có truyền thống nào có được điều gì mới để đưa ra. Tất cả chỉ có nói, nói, và nói suông. Không có lối thoát. Vì thế chúng ta nên thực hành Vipassanā hay thiền Minh Sát như Đức Phật muốn chúng ta thực hành. “Passa-yana: bạn hãy quan sát thực tại trong chính mình. Và lúc đó bạn sẽ hiểu vì sao tôi dạy như vậy, tại sao tôi lại muốn bạn giữ giới – sīla.”. Tất cả những lý do khác mà tôi đã đưa ra chỉ có tính chất nông cạn, bề ngoài hoặc rất thô mà thôi.

Lời dạy của Đức Phật đưa bạn từ thô – olarika, đến tế – sukhuma: danh và sắc hay tâm và thân vi tế. Một sự tương tác không ngừng của danh và sắc cứ tiếp diễn suốt cuộc đời chúng ta. Từ lúc chúng ta thọ sanh cho đến lúc chúng ta chết đi, có một sự tương tác hay tác động qua lại của danh và sắc không ngừng như vậy. Tâm, thân ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tâm sanh do sắc (thân), sắc sanh do tâm – những luồng chảy, luồng cắt, luồng ngầm, và tất cả những điều này đang xảy ra trong cơ cấu của thân.

Khi bạn thực hành Vipassanā bạn sẽ thấy rằng có những cảm thọ ở khắp toàn thân; nhưng đừng xem chúng chỉ là những cảm thọ của thân. Một mình thân không thể cảm giác; đòi hỏi phải có tâm – tâm cảm giác.

Một cảm thọ đặc biệt xuất hiện – tâm cảm giác nó, đồng thời một phần khác của tâm sẽ phản ứng lại nó. Nếu đó là cảm thọ dễ chịu hay thọ lạc, tâm sẽ phản ứng với tham. Nếu đó là cảm thọ khó chịu, tâm sẽ phản ứng với sân. Khi tâm phản ứng với sân, cảm thọ khó chịu sẽ trở nên khó chịu hơn.

Khi bạn bắt đầu kinh nghiệm được những cảm thọ này, bạn sẽ để ý thấy rằng nếu như bạn sát sanh bạn sẽ phát ra một số lượng sân hận hay ác ý hay thù nghịch rất lớn. Sân hận – dosa – này phải khởi lên trong tâm bạn trước, chỉ khi ấy bạn mới sát sanh. Nếu bạn là một hành giả Vipassanā tốt, bạn sẽ thấy rằng ngay khi bạn phát ra bất kỳ một tiêu cực nào trong tâm – có thể đó là sân hận, nóng giận, ác ý hay thù nghịch – bạn trở nên kích động, bạn trở nên đau khổ. Bạn không thể nào thọ hưởng được sự bình an khi bạn phát ra sân hận như vậy. Ngay khi bạn phát ra sân hận bạn sẽ là nạn nhân đầu tiên của sân hận ấy. Đây là Pháp – Dhamma, là quy luật tự nhiên. Khi bất cứ người nào khởi lên sân hận, dù họ là người theo Ấn giáo, dù họ là một tín đồ Thiên Chúa hay Kỳ Na giáo (Jain); một người Ấn, một người Mỹ hay người Nga, một người da trắng, da đen hay da nâu, nó cũng không làm khác đi được.

Bất kỳ ai phát ra sân hận, hay tiêu cực đều sẽ bị trừng phạt ngay tại chỗ. Bạn đã phá vỡ quy luật của tự nhiên. Khi bạn vi phạm luật pháp của một đất nước, đất nước ấy sẽ trừng phạt bạn. Bạn có thể luồn lách để thoát khỏi sự trừng phạt đó, nhưng nếu bạn vi phạm quy luật của tự nhiên, bạn không thể nào thoát khỏi nó. Nếu bạn vi phạm luật pháp của một đất nước, sự trừng phạt có thể sau vài năm mới đến, nghĩa là sau khi đã qua hết tòa án này đến tòa án khác, song với quy luật của tự nhiên thì khỏi phải chờ đợi.

Đây là sự giác ngộ của Đức Phật. Ngay khi bạn thực hiện một hành động bất thiện bằng thân hay lời nói, bạn đã làm ô nhiễm tâm bạn, bạn đã phát ra tiêu cực trong tâm mình. Ngay khi bạn phát ra tiêu cực trong tâm, khổ đau liền khởi động. Ở bề mặt của tâm bạn không biết bởi vì bạn chưa từng đi sâu vào bên trong. Nhưng tận sâu bên trong bạn đã bắt đầu khổ đau.

Đối với trộm cắp cũng vậy. Bạn không thể trộm cắp nếu như bạn không phát sanh tham lam trong tâm. Bạn không thể phạm tà hạnh trừ phi bạn phát sanh dục vọng trong tâm. Bạn không thể nói dối và lừa đảo người khác nếu bạn không phát sanh cái tôi hay tham ái hay một bất tịnh nào khác trong tâm. Quy luật tự nhiên là quy luật mà ngay khi bạn phát ra một tiêu cực trong tâm, bạn đặc biệt khổ đau. Và không phải rằng sau khi chết quả báo của hành động đó mới đến. Tất nhiên sau khi chết nó cũng sẽ đến nhưng thiên nhiên không phải chờ lâu như vậy – nó sẽ trừng phạt bạn ngay tại chỗ và nó cứ tiếp tục trừng phạt bạn cho đến bao giờ sự bất tịnh còn ở trong tâm bạn.

Idha tappati, peccatappati, pāpakārī ubhayattha tappati.

Hiện tại người ấy khổ, sau khi chết người ấy khổ, trong cả hai nơi người làm điều ác phải chịu khổ.

Nếu bạn thực hiện bất kỳ một hành động tội lỗi hay bất thiện nào, bằng thân hay bằng lời nói – bạn bắt đầu khổ đau, khổ đau, khổ đau. Đây là lời dạy mang tính chất phổ quát của Đức Phật. Bất luận người nào làm một hành động gì, bằng thân hay bằng khẩu, gây thiệt hại, tổn thương, hay quấy động sự bình an và hòa hợp của những người khác, lập tức phải chịu khổ đau.

Manasā ce padutthena bhāsati vākarotivā

Khi bạn thực hiện một hành động bằng thân hay khẩu, với tâm ô nhiễm, cái gì sẽ xảy ra?

Tato nam dukkhamanveti cakkamva vahato padam.

Lúc đó khổ não sẽ liên tục theo bạn – theo bạn, như bánh của chiếc xe bò luôn luôn đi theo chân con bò đã bị bắt ách vào chiếc xe. Con bò đi chỗ nào, bánh xe lăn theo đó, bánh xe lăn theo đó, bởi vì nó đã bị bắt ách vào chiếc xe vậy. Khi bạn thực hiện một hành động, bằng thân hay khẩu, với căn bản của một cái tâm ô nhiễm, bạn đã làm tăng trưởng lề thói quen phản ứng với tâm ô nhiễm của bạn. Và mô thức thói quen này sẽ tiếp tục tăng trưởng, tiếp tục tạo ra khổ não cho bạn. Bạn hiểu được điều này nhờ thực hành Vipassanā. Mỗi sátna hay khoảnh khắc tôi phản ứng với sân, tôi trở nên đau khổ. Cảm thọ mà tôi kinh nghiệm trong lúc phát ra sân hận ấy là một cảm thọ rất khó chịu. Nó làm cho tôi cảm thấy rất đau khổ, và tôi nhận ra, “Xem đó thiên nhiên đang trừng phạt tôi, thiên nhiên đang trừng phạt tôi ngay hiện tại, và sẽ tiếp tục trừng phạt tôi nếu tôi không thoát ra khỏi mô thức thói quen (phản ứng) này.”

Đây là quy luật của tự nhiên. Đức Phật không tạo ra quy luật này. Đức Phật không phải là đấng sáng tạo ra Pháp (Dhamma). Dhamma đã có sẵn. Đức Phật chỉ khám phá ra nó. Ngài đã đi vào sâu trong tự thân và khám phá ra quy luật tự nhiên ở mức kinh nghiệm, chính sự khám phá này đã làm cho ngài thành một bậc giác ngộ.

Mọi người ai cũng có thể thực hành kỹ thuật mà ngài đã khám phá ra. Và họ cũng sẽ đạt được kết quả giống như vậy. Mọi người đều có thể khảo sát sự thực trong cơ cấu của thân mình và hiểu được sự tương tác của nó: “Hãy xem những gì đang xảy ra này. Ngay khi tôi làm ô nhiễm tâm tôi sự trừng phạt liền có ở đó.” Khi bạn càng xác minh được rõ sự thực này ở mức kinh nghiệm thì giới (sīla) của bạn sẽ trở nên hoàn hảo hơn. Nếu tôi bỏ tay vào lửa, dù vô tình hay cố ý, nó cũng sẽ đốt cháy. Lần tới tôi phải rất thận trọng: “Ồ, ta không nên bỏ tay vào lửa – nó sẽ đốt cháy – xem này, nó đã đốt cháy (tay ta lần trước) và ta không thích bị phỏng như vậy. Ta cần phải tránh tay xa ra.” Lửa bên ngoài sẽ đốt cháy tay bạn ngay khi bạn chạm vào nó như thế nào, thì những phiền não trong tâm cũng sẽ thiêu đốt bạn như vậy khi bạn bắt đầu phát ra nó, và bạn cũng bắt đầu cảm nhận được sự thiêu đốt ấy. Một khi bạn đã kinh nghiệm được sự thực bên trong này, bạn sẽ không muốn tạo thêm khổ não cho mình nữa.

Đây là những gì Đức Phật gọi là passayana: “Với thiền Minh Sát bạn quan sát trực tiếp; kinh nghiệm trực tiếp sự thực này và hiểu được thực tại. Lúc đó bạn sẽ hiểu lời dạy của tôi một cách đúng đắn hơn.” Nếu không thì, suốt cuộc đời mình bạn có thể cứ đọc mãi “Các pháp là vô thường, các pháp là khổ, các pháp là vô ngã – Ta là người tin vô thường, ta là người tin khổ, ta là người tin vô ngã.” Bạn được cái gì nào? Hãy nói cho tôi biết xem, bạn được cái gì? Đó là một ảo tưởng lớn. Tôi không được gì cả cho đến khi tôi thực sự hành. Đức Phật không tán thành bất kỳ một thú tiêu khiển thỏa mãn đức tin hay tình cảm nào. Ngài dạy cách thực hành Pháp (Dhamma) thực sự. Ngài dạy giới (sīla) mà nhờ đó người ta đạt đến giai đoạn kinh nghiệm được sự thực bên trong, và một cách tự nhiên họ sẽ tránh việc phạm giới.

Ngài dạy Định (samādhi), trước ngài chỉ có bát thiền (4 thiền sắc giới và 4 thiền vô sắc). Khi bạn đi vào sâu hơn trong kỹ thuật này, bạn sẽ hiểu được sự khác nhau giữa bát thiền thuở trước, vốn là các thiền hiệp thế (lokiya jhānas), và Đức Phật đã làm cho chúng thành thiền siêu thế (lokuttara) bằng cách vặn hay xoay chúng về hướng giải thoát như thế nào. Sampajađđa (tỉnh giác) trong nghĩa đích thực của nó là sự hiểu biết toàn diện và liên tục về tính chất vô thường, không bao gồm trong bát thiền thuở trước. Đức Phật đã bắt đầu hành với chánh niệm-tỉnh giác (sati-sampajađđa). Vào lúc ngài đạt đến thiền thứ ba, thiền chứng thứ ba (jhāna samapatti), trí tuệ tỉnh giác được hoàn hảo. Sampajađđa hay trí tuệ tỉnh giác chỉ được hoàn hảo khi bạn hay biết về các cảm thọ này – hay biết một cách liên tục tính chất sanh, diệt; Sanh, diệt của chúng cả ngày lẫn đêm.

Một người thực hành Vipassanā đúng đắn sẽ hiểu được tầm quan trọng trong những lời dạy của Đức Phật khi ngài nói, sampajađđam nariđcati, sampajađđam nariđcati: Hành giả không đượcquên dù chỉ một sátna tỉnh giác. Mỗi sátna – tỉnh giác, tỉnh giác, sanh; diệt, sanh; diệt, lúc đó vô thường không chỉ là một lý thuyết, không chỉ là một triết lý, mà là sự thực hành. Và khi bạn sống với sự sanh, diệt; Sanh, diệt; Anicca, anicca, anicca – vô thường này bạn không thể nào phát ra một bất tịnh mới. Đồng thời khi bạn sống với anicca hay vô thường này những bất tịnh cũ tiếp tục trồi lên bề mặt. Chúng trồi lên bề mặt và được đoạn trừ, hết lớp bất tịnh này đến lớp bất tịnh khác trồi lên và diệt. Lúc đó bạn trở thành chủ nhân của tâm bạn, và định (samādhi) không còn là định đơn thuần nữa, mà tuệ (pađđā) đã gồm chung với nó.

Với trí tuệ tỉnh giác bao gồm, pháp hành của Đức Phật đưa người ta đạt đến quả chứng (phala samāpatti) thứ nhất; khi một người trở thành bậc thánh nhập lưu (sotāpana) họ kinh nghiệm bậc thiền thứ nhất. Tiến lên trên đạo lộ vị này đạt đến quả chứng thứ hai: Sakadāgāmī, bậc Tư-đà-hàm, có thể đến cùng với bậc thiền thứ nhất hoặc các bậc thiền cao hơn. Khi đạt đến quả chứng thứ ba: Anāgāmī, hay a-na-hàm, và quả chứng thứ tư: Arahant, hay a-la-hán, các bậc thiền thứ ba và thứ tư rất hữu ích. Việc đạt đến các quả chứng không tuyệt đối cần thiết phải hành các bậc thiền thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, và thứ tám, mặc dù các vị có thể dễ dàng đạt đến, nếu muốn, sau khi đã hoàn tất các giai đoạn này. Song trong bốn bậc thiền đầu này, Đức Phật đã bao gồm vào đó trí tuệ tỉnh giác, sati – sampajađđa hay chánh niệm – tỉnh giác, những yếu tố mà vào thời đó hoàn toàn không có.

Dĩ nhiên, đã từng có các vị Phật khác, nhưng kể từ khi giáo pháp của vị Phật trước hoại diệt không có vị nào trước Đức Phật Gotama hay vào thời Đức Phật Gotama, hay các vị đạo sư khác sau Đức Phật Gotama có thể hiểu đúng nghĩa của từ sampajađđa. Từ này đã được lưu truyền từ thời các vị Phật trước nhưng thực nghĩa của nó đã lạc mất. Trong lời dạy về các thiền hiệp thế – lokiya jhāna, nó lại mang ý nghĩa của, “cố ý biết, hay sự hay biết chính xác, sâu xa.” Nhưng trí tuệ hiểu biết về vô thường đã vắng mặt vì thế lời dạy và sự thực hành đích thực về chánh niệm – tỉnh giác đã mất dấu. Trí tuệ này là sự đóng góp của Đức Phật, sự đóng góp kỳ diệu của Đức Phật.

Và rồi, với sự hiểu biết dựa trên kinh nghiệm ở bên trong này, vấn đề trở nên rõ ràng rằng hoàn toàn không có giáo lý bộ phái. Đây chỉ là quy luật tự nhiên. Tôi không nhất thiết phải tự gọi mình là một Phật tử mới thực hành những lời dạy của Đức Phật. Tôi có thể cứ tiếp tục tự gọi mình bằng bất kỳ tên nào, bởi vì điều đó cũng không làm khác đi mảy may. Cho dù tôi tự gọi mình là một Phật tử, nếu tôi phát ra tham, nếu tôi phát ra sân, nếu tôi phát ra si – thử hỏi có vị Phật nào ở trên mây kia đến cứu tôi không? Tôi sẽ phải khổ đau; tự gọi mình là một Phật tử sẽ không giúp ích gì. Nếu tôi thực sự muốn thoát khỏi khổ đau tôi phải thoát ra khỏi tham, tôi phải thoát ra khỏi sân, tôi phải thoát ra khỏi si.

Cái đẹp trong lời dạy của Đức Phật là ở chỗ ngài đã khám phá ra quy luật này ở tận chiều sâu, sử dụng nó cho sự giác ngộ của mình và rồi đem ban phát nó cho mọi người: “Hãy xem; Ta được giác ngộ nhờ pháp này. Ta được giải thoát nhờ pháp này. Các người ai cũng có thể được giải thoát. Các người hãy cố gắng – hãy thực hành pháp này.”

Và cái đẹp nữa trong lời dạy của Đức Phật là khi ngài nói, “Ta không dạy pháp để thu nạp các ngươi làm đệ tử của Ta.” Trong Udumbara Sutta (Kinh Udumbara) ngài nói, “Ta không quan tâm đến việc nhận các ông làm đệ tử, Ta không quan tâm đến việc tách các ông khỏi thầy cũ của các ông – Ta không quan tâm. Ta không quan tâm ngay cả đến việc thay đổi mục đích của các ông, bởi vì mọi người đều muốn thoát khỏi khổ đau. Chỉ cần các ông cho Ta bảy ngày trong cuộc đời của các ông.” Đức Phật nói, “Hãy cho Ta bảy ngày trong cuộc đời của các ông và thử pháp ấy. Hãy thử những gì Ta đã khám phá và rồi tự các ông xét đoán xem pháp ấy có lợi ích hay không lợi ích cho các ông. Nếu pháp ấy lợi ích cho các ông, thời hãy chấp nhận nó. Bằng ngược lại, đừng chấp nhận nó.” Đây là cách dạy đạo của Đức Phật. Ngài không màng đến việc giăng bẫy những người học đạo. Ngài cũng chẳng quan tâm đến việc thiết lập một tôn giáo, một bộ phái đặc biệt nào. Thế gian này sẽ được lợi ích gì nếu mọi người trên thế gian ai cũng tự gọi mình là Phật tử nhưng chẳng ai chịu hành pháp (Dhamma) cả? Thay vào đó, nếu như người ta thực hành giới (sīla), định (samādhi), và tuệ (pađđā), họ sẽ được cứu giúp và thế gian sẽ được cứu giúp. Điều này bắt đầu đem lại lợi ích cho bản thân họ và cho mọi người. Toàn bộ bầu khí quyển trở nên trong sạch. Nó sẽ được nạp đầy với Pháp-với những rung động của sự thanh tịnh, với những rung động của từ ái (mettā), bởi vì người ta đã biết thực hành. Đức Phật muốn chúng ta thực hành, ngài không muốn chúng ta chơi những trò chơi tri thức. Những trò chơi này sẽ không giúp ích gì cả; chúng là một sự lừa đảo lớn.

Hãy lấy việc nếm một cái bánh làm ví dụ. Cái bánh rất ngọt. Bạn chấp nhận rằng nó ngọt bởi vì Đức Phật nói như vậy. Và do bạn có đức tin nơi Đức Phật, nên bạn chấp nhận nó. Đây chỉ là sự chấp nhận suông. “Kim mannasi – ông tin thế nào? Tôi tin giáo pháp của Đức Phật là tuyệt diệu.” Đây chỉ đơn thuần là niềm tin của bạn. Hoặc, giả sử bạn tiến thêm một bước nữa và cố gắng để tri thức hóa vấn đề: “Ồ, Đức Phật nói điều này là vậy. Những vị khác lại nói khác. Song những lời của Đức Phật thật hợp lý, thật khoa học – A, tuyệt diệu thay! Lời dạy của Đức Phật thật tuyệt diệu.” Một lần nữa, bạn được cái gì? Cái bánh rất ngọt vì nó có đường. Vì thế lẽ đương nhiên là nó phải ngọt. Nhưng cái bánh có thực sự ngọt hay không? Chỉ khi bạn bỏ nó vào lưỡi của mình và nếm nó, bạn mới có thể nói: “Vâng, bánh rất ngọt.” Nó ngọt trên lưỡi của bạn. Nếu bạn không thực hành lời dạy của Đức Phật – bạn chỉ tiếp tục ngưỡng mộ giáo pháp của ngài – thì bạn chỉ là người ngưỡng mộ tuyệt diệu của Đức Phật. Bạn cũng có thể được xem là một người sùng tín Đức Phật tuyệt diệu chứ không phải là người theo Đức Phật, đệ tử của Đức Phật. Và bạn sẽ không được gì nếu bạn không theo những gì Đức Phật dạy.

Sùng tín là hết sức tốt. Tín (saddhā) là bước đầu tiên trên đạo lộ của Pháp. Tôi thường nói tín cũng giống như chuẩn bị một cánh đồng cho việc trồng trọt vậy. Bạn cày bừa cánh đồng, bạn loại bỏ hết mọi sỏi đá, bạn trồng trọt thật khéo – và rồi bạn ngồi gần cánh đồng ấy mà cầu nguyện. “Bây giờ đã chuẩn bị xong cánh đồng rồi. Cánh đồng ơi xin hãy cho tôi một vụ mùa tuyệt diệu; hãy cho tôi một vụ mùa bội thu.” Tương tự, “Ôi Đức Phật, xin ngài hãy làm một điều gì đó để cho con được một vụ mùa tuyệt diệu.” Nhưng chẳng có gì xảy đến cả. Bạn phải gieo hạt trên cánh đồng; bạn phải dẫn nước vào ruộng; bạn phải bón phân thích hợp. Chỉ lúc đó bạn mới thấy rằng một vụ mùa khỏe mạnh đang vươn lên. Sùng tín cũng giống như chuẩn bị đất nhưng không dừng ở đó. Nó là một bước rất quan trọng, không có gì hoài nghi cả. Nhưng sau đó bạn phải bước những bước kế tiếp và những bước ấy bạn phải tự mình làm lấy, không ai khác có thể làm điều đó cho bạn. Một vị Phật không thể làm điều đó cho bạn. Một vị Guru (minh sư) không thể làm điều đó cho bạn. Thầy của bạn không thể làm điều đó cho bạn. Bạn phải tự mình làm lấy.

Tumhehi kiccamātappam, akkhātāro Tathāgatā.

Các ngươi phải tự mình thực hành một cách tinh tấn, các đấng Như Lai chỉ công bố con đường.

Một vị Như Lai – Tathāgatā (danh hiệu của Đức Phật), sẽ chỉ làm công việc chỉ đường; Ngài không mang chúng ta trên vai đến mục tiêu cuối cùng được. Tumhehi kiccamātappam: bạn phải tự thực hiện sự giải thoát của mình. Ai đó có thể hướng dẫn bạn bởi vì họ đã đi qua con đường ấy, từng bước từng bước một. Như Đức Phật đã giải thích, “Ta đã đi qua con đường này. Ta đã được lợi ích. Nếu các ngươi muốn tới đó, các ngươi cũng phải bước đi. Khởi sự bước những bước đi đến đó.” Bạn bước được nhiều bao nhiêu bước, bạn sẽ được nhiều chừng ấy lợi ích. Nếu bạn bước hết mọi bước trên con đường, bạn sẽ đạt đến mục tiêu cuối cùng.

Con đường (đạo lộ) là chung. Bạn đến dự một khóa thiền mười ngày hay lâu hơn để thực hành những gì Đức Phật đã dạy. Và điều kiện tiên quyết là: nếu bạn tham dự bạn phải giữ ngũ giới trong suốt thời gian bạn ở lại. Dù trước đây bạn đã từng giữ những giới này hay chưa không thành vấn đề. Trong lúc bạn đang tham dự khóa thiền, trong lúc bạn đang cố gắng thực hành những gì ngài muốn bạn phải thực hành, ít nhất trong mười ngày này, bạn phải giữ ngũ giới một cách thận trọng. Ấn giáo hay Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo, hay Jain, tất cả đều phải giữ ngũ giới. Họ không bất hòa; họ chấp nhận giới luật này – bởi vì ngũ giới là chung. Có tôn giáo nào nói, “Được, anh có thể sát sanh; điều đó không sao cả. Cứ tiến hành, anh có thể trộm cắp; chẳng có vấn đề gì cả. Anh có thể tà dâm, không sao cả. Anh có thể nói dối.” Chẳng có tôn giáo nào dạy như vậy cả, bởi vì giới hay cách cư xử hợp với đạo đức là mẫu số chung lớn nhất của mọi tôn giáo.

Vì thế bước đầu tiên là thực hành giới, giữ cho những hành động của thân và khẩu hợp với đạo đức. Kế đến, bạn được yêu cầu ngồi thật thoải mái. Không ai đòi hỏi bạn phải ngồi trong tư thế kiết già hay bán già. Bạn chọn bất cứ cách nào mà bạn có thể ngồi được một cách thoải mái, giữ cho lưng thật thẳng. Bạn nhắm mắt, ngậm miệng và người hướng dẫn của bạn sẽ nói, “Hãy quan sát hơi thở của bạn.” Đây là những gì Đức Phật đã dạy: “Quan sát hơi thở của bạn, hơi thở tự nhiên – khi nó đi vào – khi nó đi ra.”

Giả sử cùng với sự hay biết hơi thở, bạn được chỉ dẫn hãy đọc thầm một từ nào đó. Đây là những gì đã xảy ra ở một vài loại thiền khác. Tôi cũng đã trải qua những pháp hành như vậy rồi, vì thế tôi biết những gì xảy ra. Bạn được yêu cầu thở trong lúc vẫn niệm thầm một từ; thở ra, bạn lặp lại trong tâm một từ khác. Chẳng hạn, nếu tôi là một người theo Ấn giáo, thở vào tôi niệm: “Rāma, Rāma”22; nếu tôi theo đạo Sikh23: “Sata-nama, Sata-nama.” Đại khái như vậy, một từ nào đó được người ta sử dụng bất cứ khi nào có thể được. Người tự gọi mình là Phật tử thì sẽ đọc, “Buddha, Buddha.”

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.