Phương Trời Cao Rộng – Chương 4 – 6

Buổi sáng, sau khi làm xong công tác được giao phó, chúng tôi đi ăn điểm tâm rồi bắt đầu cái công việc nhàn rỗi nhưng kéo dài suốt ngày là: coi nhà. Chú Dũng và Sung coi phía trước chùa (chánh điện); chú Sang và Thiệt coi dãy nhà cũ (bao gồm phòng tăng, phòng học, thư viện và tịnh thất của hòa thượng); chú Xuân và Thỏa coi dãy nhà mới; còn tôi và Kính thì coi phòng khách. Suốt ngày chúng tôi ngồi đó, không được chạy đi đâu. Vừa coi nhà, vừa học kinh.

Hình như thầy vẫn chưa phát hiện cái mền ướt nằm dưới giường gỗ. Còn tôi, tôi vẫn không có cơ hội nào trong ngày để lôi cái tấm mền đó ra. Tôi cũng chẳng biết nói với ai để họ thông cảm và giúp đỡ tôi chuyện đó. Đái dầm đâu có phải là chuyện hay ho gì để có thể bộc bạch với người khác. Cho dù mẹ tôi lên chùa, tôi cũng không đủ can đảm để thưa với bà chuyện đó. Huống chi, bà có thể giúp gì được tôi nếu không phải là thưa với thầy để xin phép được lấy tấm mền ra ngoài mà giặt! Làm vậy thì còn gì là bí mật của tôi nữa! Thầy mà biết rồi thì có thể những thầy khác, cho đến những chú tiểu trong chùa, cũng sẽ biết. Quê không chịu nổi! Mặt mũi đâu mà sống, mà tu ở ngôi chùa lý tưởng này nữa!

Thầy chỉ mở cửa cho tôi vào ngủ ban đêm. Ban ngày, nếu thầy không sai bảo thì tôi không có cơ hội nào để vào phòng thầy cả. Có lúc thầy sai tôi vào lấy vật này vật nọ trên bàn hay trong tủ. Có khi thầy sai tôi mang bình thủy xuống bếp lấy nước sôi cho thầy. Những lần như vậy, vào rồi ra, có thầy ngồi trong phòng hoặc ngồi chờ ở ngoài phòng khách, tôi có thể làm gì được! Tôi không nẩy ra được chút sáng kiến nào trong việc giải quyết tấm mền ướt, mà cũng không đủ thời giờ để thực hiện nếu có sáng kiến nảy ra. Tâm tôi âu lo suốt ngày hôm đó. Đến tối, thầy trò vào phòng chuẩn bị đi ngủ, thầy dạy tôi ngồi niệm Phật (chứ không được ngủ sớm như đêm qua) nửa giờ đồng hồ theo lệnh báo chúng. Tôi xuống buồng sau tự động lôi cái ghế xếp ra và chỉ lấy theo cái gối. Tôi cũng không quên khom người nhìn xuống dưới giường gỗ xem có còn một đống mên lù lù ở đó không. Còn. Cái vật màu cứt ngựa đó hãy còn nằm yên trong bóng tối. Vậy cũng tạm yên tâm trong đêm nay. Thầy chưa biết là tốt rồi. Thấy tôi không mang mền, thầy hỏi:

“Sao không lấy mền ra đắp?”

Tôi trả lời nhanh:

“Dạ… trời nóng quá. Con ngủ như vầy cho mát,” nói xong bỗng thấy ngượng miệng, khó chịu trong lòng. Lần đầu tiên tôi dối thầy.

Thầy gật gù nhìn tôi một lúc rồi nói:

“Ít hôm nữa đề thầy nói thầy quản lý lục trong kho vải của viện xem có xấp nào cho con để may đồ tu mà mặc cho thoải mái. Đồ tây chật chội quá phải không?”

“Dạ, bạch thầy mẹ con đã may đồ tu sẵn cho con rồi. Mẹ con dặn khi nào thầy cho phép thì mới lấy ra mặc.”

“Vậy sao? Thầy cho phép rồi đó, mai con lấy ra mà mặc.”

Ngày mai. Tôi sung sướng mặc vào người bộ đồ tu mẹ tôi lo may từ tháng trước. Mẹ may cho tôi ba bộ đều màu lam nhạt, loại vải tê-tơ-rông (tetron) rất đẹp. Tôi thích lắm và tôi thật không biết diễn tả làm sao nỗi sung sướng của mình ngày hôm ấy. Chính lúc mặc áo quần tu vào người, tôi mới thấy mình thật sự thuộc về chùa và lập tức trở thanh một thầy tu nhỏ (Chiếc áo  phải làm nên ông thầy tu!). Lâu nay chỉ tạm thời và bây giờ thì chính thức rồi đây. Đồ tôi mặc, trong chùa gọi là đồ vạt khách (ngoài Trung, kể cả Nha Trang, gọi là vạt hò). Quần thì may đơn giản, hai ống, luồn giây thun hoặc giây thắt lưng (của bọn tiểu như tôi thì giây thun cho tiện). Áo thì hơi giống ái bà ba của người thôn quê nhưng đặc biệt có một vạt nhỏ nối với vạt bên trái, kéo qua phía phải, có bốn cho đến sáu cái nút chạy dọc theo ba cạnh của vạt áo này để cài vào vạt phải. Đồ vạt hò không có may ba bốn cái túi như áo bà ba mà chỉ duy nhất một cái túi nằm giấu trong vạt áo nói trên. Vị trí của túi áo nằm ở giữa ngực và bụng, phía bên phải, người khác không nhìn thấy được.Tôi thích cái túi đó lắm. Nó lạ và hay hay mà kiểu áo của người đời không sao có được. Nhà tu đâu có vật sản gì quý giá, nhưng nếu có thì cũng không khoe ra ngoài như người thế tục. Vị trí cái túi áo của nhà tu đã nói lên ý nghĩa đó. Không phải chỉ nơi cái áo vạt hò mà cả nơi áo nhật bình, áo năm thân, áo thông y, hậu… đều như vậy cả, tức là có cái túi nằm khuất bên trong hoặc nằm ở vị trí rất lạ (như hai túi rộng ở hai ống tay của cái hậu, tức cái áo tràng màu vàng dành cho quý thầy). Người đời không biết là nhà tu có túi. Như vậy, cái túi của nhà tu tuy chẳng cất gì quý báu (có thể chỉ là một tờ giấy ghi vài chữ vài câu gì  đó để học, một ít tiền để đi xe, một ve dầu nhỏ, hay chỉ là một cái khăn tay) nhưng nó cũng có vị trí và vai trò tế nhị, kín đáo của nó, để ít ra cũng có một chỗ riêng tư nào đó cho nhà tu chứ!

Bộ đồ tôi mặc vào thấy mát mắt lắm và cũng thích hợp cho không khí mùa hè nữa. Ai thấy tôi mặc đồ tu cũng khen, nhất là mấy chú tiểu, cứ chạy theo sờ, đụng, chọc quê tôi hoài:

“Úi da, đứt tay rồi!”

 “Kìa, kìa, mấy con ruồi đậu vô là bị trợt té hết, thấy chưa?”

Tôi thấy vui vui trong lòng, không chấp chi chuyện mấy chú chọc ghẹo. Tôi lên trình diện thầy để thầy biết tôi đã mặc đồ chùa chưa. Nhưng thầy đã làm tôi sửng sốt. Thầy nói:

“Ai may đồ cho con vậy” Mẹ con hả?”

“Dạ mẹ con đưa cho sư cô Yến may.”

“Không được. Vải tốt quá. Làm chú tiểu mới tập sự chuyện tu không cần phải ăn mặc sang trọng như vậy. Đem vứt hết đồ kiểu này đi.”

Tôi buồn rầu, xụ mặt, dạ một tiếng rồi ủ rủ rút lui. Tôi đi được vài bước thì thầy gọi giật lại:

“Này, đem mấy bộ đồ của con cho mấy chú tiểu khác mặc. Chú nào mặc vừa thì cho, mỗi chú một bộ. Rồi  thầy sẽ kiếm vải cho con may đồ khác. Ở đây có mấy thầy trong ban trực phòng may sẽ cắt đo và may đồ cho con. Nếu viện không có sẵn vải thì thầy mua cho con. Còn nữa, đôi giép da kia cũng không được mang. Nói mẹ con mua giép nhựa thay thế. Giép da đem cho mấy chú tiểu khác đi.”

 Tôi ra ngoài. Trở về phòng mình mà ứa nước mắt. Thầy có hứa chuyện may đồ khác cho tôi, tôi có đem cho các chú tiểu khác đồ này thì cũng không tiếc, nhưng nghe trong lòng chua xót tội nghiệp cho mẹ tôi. Mẹ tôi lo mua sắm, chăm chút cho tôi từng món, bây giời bị thầy la, bảo đem cho hết, bảo sao không thương mẹ được! Mai mốt mẹ lên chùa thấy đồ mình may cho con mà chú tiểu khác lại mặc  thì dù có bao dung đến đâu chắc mẹ cũng phải buồn.

Tôi về phòng thay đồ ra, lại mặc đồ tây vào. Thấy tôi có vẻ buồn chú Dũng e dè hỏi:

“Sao vậy? Bộ thầy chưa cho mặc đồ tu hả?”

“Không phải, thầy không cho bận đồ tốt.”

“Vậy thì may đồ khác hả? Còn đồ này thì sao?’

“Thầy biểu cho mấy chú mặc.”

“Sao mấy chú khác mặc được mà chú lại không được?”

“Tôi cũng chẳng biết nữa. Thầy nói sao thì nghe vậy thôi. Chú lấy đồ này mặc đi.”

“Không, tôi có đủ rồi. Hay là… hay là đổi đồ mới lấy đồ cũ của mấy chú kia, khỏi cần may.”

“Ờ, đúng đó, nhưng chỉ có chú mới vừa chứ chú Sung thấp hơn tôi làm sao đổi được. Đồ chú Kính thì bộ nào cũng đỏ loét, tôi không thích đâu. Còn các chú Sang, Thỏa, Thiệt thì lại cao quá đâu có mặc vừa đồ của tôi. Thôi tôi với chú đổi lấy áo quần cho nhau đi. Đổi đôi giép nữa nha, giép da này thầy cũng không cho tôi mang đó.”

Cả tôi và chú Dũng đều không hiều nguyên do thầy cấm tôi mặc đồ tốt, giép tốt mà không cấm mấy chú khác. Tôi đưa cả đồ của mình cho chú Dũng, nhưng khi chú Dũng đưa quần áo của chú cho tôi, tôi thấy là mình không thể mặc được. Thứ nhất, áo quần của chú Dũng ngắn củn cởn, chính chú mặc còn bị ngắn huống hồ tôi cao hơn chú mấy phân. Thứ hai, đồ chú dơ quá, dính mực, dính mủ chuối, lốm đốm khắp trên áo quần mà chính lúc mặc vào tôi mới để ý. Nhưng tôi không dám chê, sợ chú buồn. Tôi cứ đưa đồ của mình cho chú mặc còn đồ của chú, tôi nói rằng mặc không vừa, xếp lại cất vào va-li. Tôi định bụng là cứ mặc đồ tây tạm thời cho đến khi nào thầy hay mẹ may cho tôi đồ khác. Tôi không đưa hết đồ của mình cho chú Dũng mà giữ lại một bộ trong va-li để giữ chút kỷ vật của mẹ. Tự dưng tôi muốn khóc khi nghĩ đến bàn tay chăm sóc của mẹ. Chính tay mẹ tôi lựa vải cho tôi đó. Tôi biết nói sao với mẹ khi đem áo quần này cho hết. Tôi không hiểu được ý thầy. Nếu thầy không đồng ý chuyện đi tu mặc đồ đẹp thì sao thầy không bảo đem cất hết mà lại bảo đem cho các chú kia mặc, còn tôi thì không? Không hiểu được thâm ý của thầy, trong lòng tôi hơi bất mãn. Nhưng, như đã nói ở trước, từ lần đầu tiên bái kiến thầy và Hòa thượng Từ Quang, tâm ý tôi đã biến đổi nhiều. Tôi muốn sống đời sống  tuân phục. Tôi muốn vâng lời thầy một cách chân thành, tân tụy. Tôi không buồn nghĩ về chuyện thầy đối xử bất công với mình nữa.

Vào ngày thứ ba, tôi bắt đầu học luật Sa-di. Như vậy là nhanh lắm. Trong khi các chú tiểu để chỏm vẫn còn học kinh mà tôi đã bước qua học luật là trường hợp khá đặc biệt rồi. Thầy quản chúng cho tôi một cuốn Sa-di dày khoảng hai trăm trang (vừa âm vừa nghĩa) để học. Tôi chỉ cần học thuộc lòng phần âm Hán-Việt, còn phần nghĩa thì học sau theo chương trình của Phật học viện Sơ hay Trung đẳng. Thầy quản chúng biết hai đêm rồi tôi đã ngủ trong phòng thầy Hải Tuệ nên thầy chia công tác khác cho tôi. Như vậy, tôi không cần phải làm công tác quét dọn ở Tổ đường và phòng khách nữa mà làm “thị giả” cho thầy tôi. Chức thị giả có nghĩa rất đơn giản là người hầu cận. Ở chùa, các vị hòa thượng cao niên, các vị trụ trì hay những vị lãnh đạo giáo hội phải đảm đương nhiều công việc, đều cần một thị giả để giúp đỡ những việc vặt vãnh như pha trà, dọn cơm, quét dọn phòng riêng, theo hầu lúc ra đường, đi xa v.v… Thầy tôi là người bận bịu nhiều công việc nhất của viện, nên cắt một người làm thị giả cho thầy cũng là điều hợp lý. Trước đây thầy quản chúng cũng cắt một chú lớn tuổi (khoảng mười tám, hai mươi) làm thị giả cho thầy tôi, nhưng chú ấy đã đi vào Sài-gòn học. Kể từ lúc đó, thầy quản chúng đã cắt cử một hai thầy trẻ khác thay nhau đảm trách chức thị giả cho thầy tôi. Thầy tôi không muốn phiền các thầy đang là học tăng theo học chương trình của Phật học viện nên từ chối nhận thị giả. Nay thấy thầy cho tôi ngủ trong phòng riêng, thầy quản chúng biết là việc chọn thị giả cho thầy tôi cũng đã đến lúc thích hợp. Vào buổi cơm chiều, thầy quản chúng đã thưa với thầy tôi để hợp thức hóa chuyện chọn tôi làm thị giả. Thầy tôi im lặng chấp nhận. Kể từ đó, tôi đảm trách việc hầu hạ thầy suốt ngày đêm trong mọi sinh hoạt, cho đến giờ đi ngủ. Nhờ ra vào thường xuyên nơi phòng thầy, tôi có thể kiểm soát được cái mền xanh từng giờ. Mỗi lúc thầy sai tôi vào phòng lấy vật này vật nọ là tôi bước xuống buồng dưới, nhìn xuống gầm giường xem còn cái mền nằm đó không. Chỉ kiểm soát được như vậy chứ không biết làm cách nào tốt hơn. Mền còn nằm đó tức là thầy chưa biết. Vậy là yên tâm rồi. Ngày nào cũng vậy, hễ không có thầy trong phòng thì tôi khom người xuống để chắc ăn là cái mền chưa bị thầy phát giác.

Công việc của tôi bắt đầu từ bốn giờ sáng (sau khi đã ngồi niệm Phật nửa tiếng đồng hồ). Xuống bếp lấy một bình nước sôi đem lên, pha vào bồn cho thầy rửa mặt súc miệng. Rồi theo thầy đi tụng thời công phu khuya. Buổi sáng, tôi lo quét dọn trong phòng thầy rồi dọn cơm cho thầy ở bàn ăn cạnh Tổ đường (dành cho quý thầy lớn, trong ban giám học). Trong khi thầy dùng cơm, tôi đứng phía sau để quạt hầu. Ban ngày khi thầy tiếp khách, tôi cũng đứng phía sau hoặc lảng vảng gần đó để chờ thầy sai bảo lúc cần. Công việc không nặng nhọc nhưng khiến tôi không rảnh được lúc nào. Tôi đi đâu lâu một chút cũng không được. Cho nên, trở lại chuyện cái mền xanh dưới giường, cho đến ngày thứ tư, thứ năm rồi mà tôi vẫn chưa làm sao mang cái mền ra khỏi phòng thầy. Từ lúc làm thị giả chính thức, tôi nghĩ là tôi đã có cơ hội ra vào thường xuyên nơi phòng thầy, chắc là phải có lúc thuận tiện để kéo cái mền, mang ra ngoài. Nhưng một hai ngày cố gắng, tôi vẫn chưa làm gì được. Tôi tự hỏi, mang mền ra ngoài rồi đem đi đâu? Huống chi, mền của thầy tôi đâu được phép mang ra ngoài khi chưa được phép thầy. Mà được phép thì còn gì là “bí mật”nữa! Chưa hết, chỗ  giặt đồ là chỗ công cộng, làm sao tôi có thể giấu được cái mền khai hoắc mà không làm những người chung quanh chú ý ?

Hai ngày trước tôi đã theo chú Dũng đi giặt đồ nên tôi biết là chuyện giặt đồ không phải đơn giản gì đâu. Phật học viện mùa hè thường bị thiếu nước. Viện thông báo cho tất cả học tăng phải xuống núi để tắm giặt, còn nước của hồ chứa nước mưa cũng như nước bơm được từ hồ lọc nước lên, phải dành ưu tiên cho nhà bếp và các vị cao niên trong ban lãnh đạo Phật học viện sử dụng. Xuống núi tắm giặt  nghĩa là phải đi theo cổng chính của Phật học viện để xuống chùa Phước Điền (nằm giữa khu vườn rau dưới chân núi) hoặc băng hết con đường Hoàng hôn để qua chùa Tỉnh hội (tức chùa Long Sơn). Lần đầu tôi theo chú Dũng xuống chùa Phước Điền cho gần. Không biết chú Dũng học cách giặt đồ của ai. Dù sao, chú nhỏ hơn tôi một tuổi mà đã biết tự lo thì cũng đáng cho tôi nể phục và học theo. Cách giặt đồ của chú đơn giản lắm: bỏ đồ dơ trong xô, đổ đầy nước vào ngâm rồi đi tắm. Tắm xong, chú đứng vào xô dậm một hồi, rồi đổ nước ra thay nước sạch vào. Lại dậm. Lại thay nước. “Khi nào thấy nước trong thì biết là đồ đã sạch rồi,” chú bày tôi như vậy, nhưng tôi thấy nước trong xô đồ của chú hình như sẽ chẳng bao giờ được trong cả. Tôi nói:

“Sao giặt đồ dễ quá vậy! Tôi nhớ hồi ở nhà, thấy chị ở giặt đồ hình như có xà-bông bột nữa mà?”

“Có xà-bông bột vô thì đồ sạch hơn, nhưng cách giặt cũng giống như vậy đó.”

“À, dễ quá há.Vậy để tôi giặt đồ của tôi. Í, mà tụi mình đâu có xà-bông giặt. Mẹ tôi không mua xà-bông cho tôi, chắc tại bà không biết là ở viện, tụi mình phải tự lo xà-bông giặt chứ viện đâu có cấp.”

“Không sao. Muốn giặt sạch mà không cần xà-bông không? Theo tôi vô đây.”

Tôi tò mò đi theo Dũng vào nhà bếp của chùa Phước Điền. Chú hỏi dì vải xin một nắm tro đem bỏ vào xô đồ của tôi. Tôi la lên:

“Ghê vậy! Dơ đồ hết!”

“Mô Phật, vậy mới sạch đó,” nói rồi chú cúi xuống lấy ta khuấy cho tan tro trong xô đồ của tôi. Xong chú vớt mấy cục than nhỏ nổi lềnh bềnh trên mặt nước, lấy tay quậy một hồi là lên bọt, ít thôi nhưng nước cũng nhơn nhớt y như có xà-bông. Xong việc, chú ngước lên nói:

“Rồi đó, bước vô dậm đi.”

Tôi làm theo mà thấy lo lo, chẳng biết tro bếp có làm đen thâm áo quần của mình không. Đang đứng dậm thì có một thầy trẻ cũng từ viện mang xô xuống giặt. Thầy ấy pháp danh gì chẳng biết, chỉ thấy chú Dũng gọi là thầy Châu. Thầy cao và ốm nhòng, da đen ngăm. Thấy tôi đứng dậm áo quần trong xô, thầy tức cười đến làm quen, rồi thầy dạy tôi giặt đồ. Sẵn có xà-bông bột mang theo, thầy dạy tôi từ đầu đến cuối công việc mà tôi muốn học này. Tôi học cách giặt đồ bằng bàn chải. Dễ thôi, sau khi ngâm đồ trong nước có pha sẵn xà-bông bột, lấy từng cái áo cái quần ra trải trên nên xi măng hay thềm giếng, dùng bàn chải mà chà. Nhưng thầy Châu nói giặt đồ kiểu đó mau hư áo quần. Thầy khuyên nên vò áo quần bằng tay, nhưng cách ấy tôi chưa làm được. Hơn nữa, vò bằng tay vừa đau tay lại vừa mất thì giờ quá, tôi và chú Dũng theo thầy trở về viện. Thầy Châu dặn tôi mỗi ngày theo thầy đi tắm giặt. Vậy là đã yên tâm về chuyện giặt đồ. Nhưng như vậy cũng chẳng có nghĩa là chuyện cái mền xanh đã giải quyết xong. Tôi đâu dám nói với thầy Châu “chuyện riêng” của mình. Ngày hôm sau, thầy Châu xách xô nước đi ngang qua phòng khách ngoắt tay rủ tôi đi tắm giặt. Lần này thầy đưa tôi qua chùa Tỉnh Hội vì nói rằng  tắm giặt bên ấy có nước phông-tên khỏe hơn là phải xách nước giếng của chùa Phước Điền. Vậy là tôi đã biết được cách giặt đồ cũng như hai chỗ để đi tắm giặt. Tôi đã có thể tự lo cho mình về việc ấy nhưng tâm tôi càng lúc càng khổ đau nhiều vì chuyện cái mền. Dù đang làm bất cứ việc gì trong ngày tôi cũng không sao quên được là có cái mền nằm một đống dưới giường gỗ của thầy. Tâm tôi bất an, lo sợ, buồn khổ. Đêm ngủ trong phòng thầy, tôi cứ giật mình thức dậy suy nghĩ mà vẫn chưa đủ thông minh để tìm cách giải quyết nó. Nếu là mền của tôi thì đâu có gì phải lo, không giặt được thì đem vất đại ở ngoài núi, có ai biết đâu. Đàng này, mền đó là của thầy. Tôi lo sợ đến nỗi dù đã niệm Phật trước khi ngủ mà cứ nằm thấy ác mộng: thấy mình đái dầm trên một cái mền khác của thầy cho mượn!

Vào ngày thứ tư, mẹ tôi mới lên chùa và biết được là tôi cần may đồ khác với loại vải xấu, rẻ tiền theo lời thầy dặn. Tôi chẳng biết phải an ủi sao cho mẹ khỏi buồn thì bà tự động nói với tôi:

“Thầy muốn con học sống đơn giản, bình dị ngay từ nhỏ cho quen.”

“Vậy hả mẹ? Mà sao thầy không cấm mấy chú kia. Sao chú Dũng mặc đồ của con thầy đâu nói gì?”

“Các chú ấy là đệ tử của các thầy khác, do các thầy khác chịu trách nhiệm dạy dỗ. Nếu thầy cấm mấy chú ấy thì đụng chạm các thầy kia. Con là đệ tử của thầy thì thầy dạy con theo ý của thầy.”

Chưa biết có phải đó thực là ý của thầy tôi không, nhưng mẹ tôi giải thích cũng hợp lý lắm, tôi tin vậy và thấy vui vẻ chứ không buồn nữa. Mẹ tôi lên thăm tôi lần này có mang cho tôi một giỏ đồ nhỏ, trong đó có nhiều thứ bánh trái và thêm ít vật dụng cần thiết cho tôi. Tôi thích lắm. Thích không phải vì tôi thiếu thốn, nhưng vì được mẹ chăm sóc. Phải, tôi cần sự chăm sóc. Dù có vói đến một lý tưởng cao vời nào đi nữa thì lúc ấy tôi vẫn cứ là một đứa bé, vắng nhà mấy ngày là thèm vòng tay, ánh mắt và cử chỉ chăm sóc của mẹ hiền. Nhưng nơi đây vào lúc này, tôi chỉ được ngồi bên cạnh mẹ, nghe mẹ hỏi thăm cách sinh hoạt hằng ngày của tôi và dặn dò điều này điêu nọ, chứ không phải để lộ tình mẫu tử như lúc còn ở nhà nữa. Mẹ hỏi ăn uống ngủ nghỉ có đầy đủ không mà thấy ốm xanh vậy. Tôi muốn ứa nước mắt, định kể lại câu chuyện cái mền xanh, nhưng cố kềm lại, không khóc, không nói. Đã xuất gia rồi, phải biết tự lo, đừng làm mẹ phải bận tâm, buồn phiền, tôi tự nhủ như vậy. Mẹ nghĩ là tại tôi ăn chay không đủ chất dinh dưỡng. Trước khi ra về, mẹ xuống bếp nói chuyện to nhỏ gì đó với các dì vải.

Chiều, khi mẹ xuống núi, tôi đứng nhìn theo, chảy nước mắt, không kềm được. Bỗng nghe tiếng thầy gọi, tôi giật mình lau vội nước mắt, xách cái giỏ nhỏ mẹ mới cho từ sân đi nhanh vào phòng thầy. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ: giọng thầy không được vui, chắc thầy đã phát giác ra cái mền ướt ủ dưới giường. Thường ngày, thầy không có thì giờ rảnh nên chẳng bao giờ thầy xuống buồng sau. Hôm nay chắc cần vật gì đó khi tôi đang ngồi với mẹ nên thầy đích thân xuống buồng sau thì phải. Tim tôi đập mạnh, sợ hãi bước đến gần thầy. Thầy nhìn tôi một lúc rồi dạy:

“Đã xuất gia rồi phải tập cho tâm chí dũng mãnh lên, không có sướt mướt ủy mị như con gái được. Chắc tại hồi đó con gần gũi học kinh với mấy ni cô nên lây cái tánh con gái chứ gì! Có phải khi nãy mẹ con về, con đã đứng khóc không? Muốn về theo mẹ hay muốn tiếp tục tu?”

“Dạ muốn tu.”

“Muốn tu thì phải cứng rắn, lần sau gặp mẹ không được nói chuyện lâu cả giờ rồi bịn rịn đưa tiễn nữa, nghe không? Cái gì vậy? Cái giỏ gì cầm trên tay?”

Tôi trình cái giỏ lên thầy. Thầy nhìn vào xem rồi bật cười, xách ra ngoài. Tôi theo thầy bước ra phòng khách, không biết chuyện gì sắp xảy ra. Thầy ngồi vào bàn, bảo tôi đi gọi hết các chú tiểu tập trung tại Tổ đường. Tôi chạy đi kêu các chú mà trong lòng thấy hoang mang bất ổn. Phải mất gần hai mươi phút tôi mới gọi đủ được bảy chú.

Chúng tôi đứng xếp thành hai hàng, chắp tay chờ thầy dạy. Thầy cười nói:

“Hôm nay có đạo hữu dưới phố lên mang biếu chú Khang một giỏ đồ. Theo tinh thần lục hòa, tức là phải biết sống hòa đồng và chia sẻ cùng nhau mọi lợi ích tinh thần lẫn vật chất, chú Khang muốn chia sớt giỏ đồ này với các chú để anh em cùng vui với nhau.”

Nói rồi, thầy soạn đồ trong giỏ ra, vật dụng như ca, muỗng, xà-bông, bút tập… thì giữ lại cho tôi; thức ăn thì chia đều cho tám chú, kể cả tôi. Phần thức ăn có bánh kẹo đủ thứ lại thêm hai hộp phô-ma đầu bò (là món tôi thích nhất) mỗi hộp sáu miếng nhỏ, vị chi mười hai miếng. Thầy chia mỗi chú một miếng, kể cả tôi. Còn lại bốn miếng, thầy chia cho bốn chú nhỏ là tôi, Dũng, Sung, và Kính. Thầy bảo lột ra ăn tại chỗ cho thầy thấy. Các chú không biết đó là ý thầy chứ không phải là ý tôi, nên nhận quà vui vẻ, đứng lột ăn. Thầy nhìn tôi quan sát. Ban đầu tôi hơi bất mãn, lột cái bao giấy bạc của miếng phô-ma ra mà dở khóc dở cười. Nhưng khi thấy các chú ăn ngon lành, lòng tôi bỗng hân hoan sung sướng trong lòng như chính mình đã đem lại niềm vui chung này chứ không phải do thầy sắp đặt.

Tối hôm đó, tôi vào phòng thầy để quét dọn sơ trước khi ngủ thì phát giác ra rằng cái mền xanh không còn nằm dưới giường nữa. Tôi tái mặt, hoảng hốt, không biết phải làm sao. Vậy là thầy đã biết chuyện. Tôi xấu hổ muốn tránh mặt thầy luôn nhưng làm sao có thể tránh được ngoại trừ bỏ chùa đi, không tu nữa! Tôi lặng lẽ quét dọn xong, ra trước hiên chùa ngồi thừ một đống, chẳng biết tính sao. Mặt mũi nào mà nhìn thầy nữa! Tôi nghĩ chút nữa vào ngủ, thầy sẽ đem chuyện đó ra, rầy tôi một trận. Không có lý lẽ nào để có thể bênh vực được cái tội của tôi cả. Điều xấu hổ nhất là để cho chính thầy phải dọn dẹp cái vật mình đã làm dơ, một điều bất kính, vô lễ khó tha thứ! Tôi mặc áo tràng bước vào chính điện, lặng lẽ thắp nhang lạy Phật sám hối một mình.

Đến giờ niệm Phật chỉ tịnh, tôi rón rén bước vào phòng. Thầy hãy còn lo việc sổ sách  tại bàn viết, thấy tôi vào, thầy ngưng một lúc như tìm một câu gì để nói. Tôi đứng một bên chắp tay chờ thầy la rầy, chỉ dạy. Nhưng thầy không đá động gì đến chuyện cái mền cả mà lại hỏi:

“Hồi chiều thầy đem đồ của con chia cho các chú, con có buồn không?”

“Bạch thầy, không.”

“Xuất gia rồi thì các chú, các thầy trong viện hay ở bất cứ chỗ khác cũng đều là anh em với mình. Có lợi lộc gì thì cũng chia sớt với nhau cho trọn tình anh em. Người xuất gia không có tài sản riêng. Chỉ lấy trí tuệ và mục tiêu giải thoát làm sự nghiệp của mình.”

Tôi sung sướng đón nhận lời dạy vàng ngọc của thầy mà muốn ứa nước mắt. Thầy không nói nhiều, lâu lâu mới có vài lời như vậy mà câu nào cũng thấm thía vào xương tủy tôi, chấn động cả tâm tư tôi. Tôi im lặng đứng đó chẳng biết nói gì thì thầy đưa tôi một tờ giấy bảo đọc thầy nghe. Đó là bài thơ của thi sĩ Huyền Không do thầy chép lại ở đâu đó, không có tựa đề. Bài chỉ tám câu nhưng không biết sao sau nhiều năm, dù có đọc lại nhiều lần tôi vẫn chỉ nhớ có sáu câu, có lẽ vì hai câu chót không được hay lắm. Tôi đọc:

“Gót đạo sĩ bốn phương trời rảo bước
Cõi ta-bà chẳng phải nhà ta
Một mình đi với bình bát ca-sa
Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ
Mùi phú quý mặc ai người hưởng thụ
Bã vinh hoa ta nào có tiếc gì…”

Thầy ngồi lắng nghe, gật gù tán thưởng như mới nghe lần đầu. Rồi thầy nói:

“Đó là ước nguyện của thầy. Đôi lúc thấy muốn làm đạo sĩ lang thang như vậy, nhưng đã lỡ gánh trách nhiệm cho Giáo hội và Phật học viện, chắc không bao giờ thầy thực hiện được…”

Đó là lần đầu tiên thầy bộc lộ tôi nghe chút cảm nghĩ và tâm sự riêng tư của thầy. Tôi đọc thơ rồi nghe thầy phân tích một cách say sưa mà quên luôn chuyện cái mền thầy đã dẹp cho tôi. Đến khi hai thầy trò cùng ngồi niệm Phật, rồi nằm xuống chuẩn bị ngủ, tôi mới sực nhớ lại là thầy đã không hề la rầy chi chuyện ấy. Chắc nhiều việc quá thầy quên. Ngày mai thầy sẽ nhớ. Tôi không ngủ được. Nằm suy nghĩ về lời dạy của thầy rồi lại suy nghĩ về cái mền. Thầy đem đi giặt lúc nào? Thầy phơi mền ở đâu? Thầy đã âm thầm làm việc đó cho tôi mà không chút bực bội, trách cứ sao?

Đang gác tay lên trán suy nghĩ mông lung như vậy bỗng thấy tay thầy nắm lấy cánh tay tôi gỡ nhẹ khỏi trán. Tôi giật mình quay về hướng thầy. Thầy nói nhỏ:

“Con chưa ngủ được hả?  Con có biết phép tự kỷ ám thị không? Phép đó có thể hiểu như là cách dùng tư tưởng và ý chí để tự dặn mình làm một điều gì đó. Rất công hiệu. Chẳng hạn con ngủ mê không thức dậy được lúc báo chúng ba giờ rưỡi thì mỗi tối trước khi đi ngủ, con tự dặn chính mình rằng ‘ba giờ rưỡi tôi thức dậy.’ Dặn mình với ý  chí quả quyết, ba giờ rưỡi con sẽ dậy, không sai chút nào. Đó là ví dụ thôi, con có thể đem áp dụng cho nhiều chuyện khác nữa. Chẳng hạn con có thể tự ám thị rằng, tôi nhất quyết không giật mình giữa giấc thì con sẽ được ngủ ngon đến giờ qui định. Người ta còn có thẻ dùng phép tự kỷ ám thị để kiểm soát những chuyện thuộc sinh lý, bản năng, như ăn, uống, đói, no, khát… tiểu tiện, đại tiện v.v … Gặp lúc đói bụng mà không có cơm ăn, con có thể ám thị rằng tôi no, tôi no quá, thì con sẽ không thấy đói. Bây giờ con áp dụng thử đi, tự dặn con hãy làm những gì con muốn và đừng làm những gì con không muốn, rồi con sẽ ngủ ngon.”

Theo lời dạy của thầy tôi duỗi hai tay dọc theo thân mình. Nhắm mắt, buông bỏ mọi tư tưởng, để tâm vắng lặng một lúc. Rồi tôi tự ám thị với mình rằng: “Tôi sẽ thức dậy đúng giờ  báo chúng. Tôi nhất quyết không đái dầm trong khi ngủ.” Tôi ám thị một mình như vậy rồi bắt đầu ngủ.

Nỗi buồn lo sợ hãi của tôi mấy ngày qua, đến bây giờ mới thực sự được sự bao dung của thầy giải bỏ cho. Tôi sung sướng mỉm cười mà ngủ.

Qua ngày hôm sau, tôi thấy cái mền xanh của thầy được xếp gọn gàng, đặt trên giường gỗ ở bàn sau. Tôi tò mò cầm cái mền lên ngửi. Chỉ có mùi xà-bông hay thuốc tẩy là còn phảng phất trên đó. Tôi không biết thầy đã nhờ ai giặt cái mền này. Suốt ngày tôi hầu thầy làm sao thầy có thì giờ đi giặt đồ mà tôi không biết. Hay là thầy đã thức giấc nửa khuya khi tôi đang say ngủ để đi giặt đồ một mình? Thôi thì dẫu sao chuyện cũng qua rồi. Điều quan trọng là đừng để xảy ra lần nữa.

Chiều, tôi vào lại phòng thầy thì cái mền không còn nằm đó nữa. Có lẽ thầy đem cất vào tủ. Thầy không muốn để tôi nhìn thấy cái mền đó mà sinh mặc cảm thì phải. Thầy đâu có quên. Nếu thầy có ý muốn la rầy tôi chuyện đó thì lúc xếp cái mền và lúc đem cất nó, thầy phải nhớ chứ không thể quên được. Hai thầy trò cùng mặc nhiên bỏ qua chuyện đó, coi như chưa hề xảy ra. Hay chỉ xảy ra như trong một giấc mộng.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.