Tài Sản Không Bao Giờ Mất – Phần II

Đến bước thứ ba là tu sạch nghiệp. Đây là chặng đường của hàng xuất gia, tu để giải thoát sinh tử. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là pháp tu này chỉ dành riêng cho người xuất gia. Nếu người xuất gia không làm đúng như vậy thì cũng không ra khỏi sanh tử. Còn người tại gia tu sạch được nghiệp rồi cũng ra khỏi sanh tử như thường.

Cho nên nhiều Phật tử không hiểu, cứ nghĩ rằng phải vô chùa, cạo đầu như quý Thầy, quý Cô tu mới giải thoát. Nếu ở chùa mà hay sân hay giận, hoặc còn tham lam thì có giải thoát nổi không? Giải thoát là do nghiệp sạch, tâm thanh tịnh, chớ không phải vô chùa mà được giải thoát. Bởi vì tâm là gốc tạo nghiệp, nếu tâm không thanh tịnh thì nghiệp không sạch, nghiệp không sạch thì làm sao giải thoát được. Chúng ta tu là phải làm sao tiến lên cho được sạch nghiệp.

Mỗi khi Phật tử qui y đều được phát lá phái, trong lá phái có bài kệ:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

Dịch:

Chớ làm các điều ác
Vâng làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.

Chớ làm các điều ác là dừng nghiệp. Giữ năm giới, không làm các điều ác là dừng nghiệp. Vâng làm các việc lành là chuyển nghiệp. Nghiệp xấu chuyển thành nghiệp tốt. Giữ tâm ý trong sạch là sạch nghiệp. Là lời chư Phật dạy, Phật Thích Ca dạy như vậy, Phật Di Đà cũng dạy như vậy. Tất cả chư Phật đều dạy như vậy hết, chứ không riêng một đức Phật nào. Như vậy quý vị thấy rằng chỉ thuộc một bài kệ đó, tu hành chân chánh cũng đủ rồi.

Quý vị nhớ giữ năm giới cho trọn là dừng được các nghiệp ác. Từ giữ năm giới rồi, tập làm thêm các việc lành. Thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành. Nhưng nói thân làm lành, có nhiều Phật tử lại hiểu là phải bố thí, làm phước mới được. Gặp trường hợp mình nghèo quá làm sao bố thí. Đừng nghĩ vậy, vì trong nhà Phật dạy bố thí có ba: Một là tài thí, tức đem tiền của giúp người. Hai là pháp thí, tức đem pháp cho người. Ba là vô úy thí, tức đem không sợ hãi đến với người.

Lại trong tài thí có phân làm hai: Một là ngoại tài, hai là nội tài. Ngoại tài tức đem tiền của hoặc đồ đạc giúp người ta. Nội tài là đem công sức từ chính bản thân mình ra giúp người. Ví dụ như Phật tử biết đánh gió, có người hàng xóm bên cạnh bị trúng gió, mình liền hoan hỷ đánh gió, giúp cho người ta hết bệnh, đó bố thí nội tài. Như vậy người nghèo cũng có thể bố thí vậy. Hoặc khi ra đường quý Phật tử thấy một cụ già lụm cụm muốn băng qua đường, mà xe cộ nhiều quá qua không được, mình cầm tay cụ đưa giùm qua đường, đó là bố thí nội tài.

Còn như người tu không có nội tài, ngoại tài thì bố thí pháp. Đem pháp nói cho quý Phật tử nghe, giúp Phật tử nhận rõ chánh tà. Thế nào là đạo đức, thế nào là phi đạo đức, giúp quý Phật tử hiểu, sống và ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống để thân tâm luôn được an vui, đó là bố thí pháp.

Như vậy ở thế gian ai cũng có thể bố thí cả, chứ không phải chỉ giàu mới bố thí được. Còn pháp cũng đâu chỉ hạn cuộc người tu mới có thể bố thí, quý Phật tử hiểu đạo rõ ràng rồi, thấy ai làm sai làm trật mình nhắc họ, chỉ cho họ sửa đổi cũng là bố thí pháp. Như vậy tất cả chúng ta đều có quyền bố thí tài, bố thí pháp hết, chứ không phải riêng người nào.

Thứ ba là bố thí vô úy. Vô úy nghĩa là sao? Là không sợ. Ví dụ có người đó bệnh trầm trọng, có thể qua không khỏi mà họ sợ chết quá. Bây giờ mình giải thích cho họ hiểu con người sinh ra, có sinh ắt phải có tử, không ai thoát khỏi. Hoặc tử sớm hoặc tử muộn thôi. Bây giờ anh hay chị đi trước thì chúng tôi cũng đi sau, chứ có ai ở lại mãi được đâu. Chúng ta an ủi giúp họ bớt sợ hãi, đó là bố thí vô úy. Hoặc như có đứa bé, ban đêm đi trên những đoạn đường vắng quá, nó sợ ma thì mình đốt đuốc, nắm tay dẫn nó về nhà, đó là bố thí vô úy. Nhiều lắm, không biết bao nhiêu việc để chúng ta làm. Trong những hạnh bố thí này, ai ai cũng có thể làm được, chớ không riêng quý Thầy, quý Cô mới làm được. Cho nên người tu theo đạo Phật là phải giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý của mình, chứ không phải tu chỉ biết ăn chay, chỉ biết đến chùa cúng Phật là đủ.

Ngày xưa ở Trung Quốc vào đời Đường, có một Thiền sư, người ta chưa biết Ngài tên gì, nhưng thấy Ngài trèo lên cháng ba cây, chặt nhánh kết lại thành chỗ ngồi giống như ổ quạ. Ngài tọa thiền trên đó, nên người ta đặt tên Ngài là Ô Sào Thiền sư. Ngài tu được ngộ đạo. Ai nấy biết tin đều đồn đãi khắp. Lúc đó có một nhà thơ nổi tiếng là Bạch Cư Dị rất hâm mộ Phật pháp, nghe danh Ngài ông tìm tới. Thấy Ngài ngồi trên cháng ba, ông đứng ở dưới chắp tay hỏi: “Bạch Hòa Thượng, xin Ngài dạy cho con pháp yếu vắn tắt nhất để con tu.” Ngài liền nói bài kệ:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

Nghe vậy ông cười: “Thưa Ngài, bài kệ này đứa con nít tám tuổi cũng thuộc nữa, nói chi con”. Ngài trả lời: “Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!”. Đó, quý Phật tử thấy chưa. Câu trả lời của Thiền sư cảnh tỉnh chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể không làm các điều ác lớn, chứ điều ác nhỏ vẫn phạm. Điều lành nhỏ đã làm, nhưng điều lành lớn cũng chưa làm được. Rồi tâm ý mình đã thanh tịnh chưa? Điều này thật khó, chớ không phải dễ. Cho nên nghe qua thì đơn giản, nhưng ứng dụng tu cho đến nơi, đến chốn thì không phải là dễ.

Cho nên tất cả quý Phật tử biết đạo lý rồi phải dè dặt, canh chừng tâm của mình, canh chừng miệng của mình, canh chừng hành động nơi thân của mình. Đừng cho nó hoặc vô tình hoặc cố ý tạo những điều tội lỗi. Lẽ thực là như vậy. Cho nên nói tới tu là nói tới nhìn lại mình nhiều hơn là nhìn kẻ khác. Phải nhớ nhìn lại xem lời nói mình có ngay thẳng chưa, ý nghĩ mình có chân chánh chưa. Để từ đó lo tu sửa lấy mình. Như vậy mới gọi là người tu.

Đa số Phật tử bây giờ nhìn mình ít mà nhìn người thì nhiều, phải không? Người ta làm quấy, làm ác, khi chết họ đọa địa ngục, chớ đâu phải mình đọa địa ngục. Can dự gì mình đâu mà cứ lo nhìn người ta hoài. Nhìn người dễ sanh ra bệnh hay phê phán. Mà phê phán chắc gì đã đúng? Nên tục ngữ ta có câu “suy bụng ta ra bụng người”. Hễ ta không muốn thì người cũng chẳng ưa. Điều này đúng không? Có thể đúng mà cũng có thể không đúng. Thí dụ kẻ gian tham trộm cướp, họ nghĩ những người hiền cũng như vậy. Còn người hiền lương đức hạnh, cho rằng ai cũng hiền lương đức hạnh hết thì đúng chưa? Đó là cái nghĩ sai lầm.

Như vậy ở đời chúng ta đừng chủ quan. Phải biết rằng những gì mình làm, mình chịu trách nhiệm và cố gắng chuyển đổi nếu nó xấu, đó mới thành công. Còn chuyện của người khác làm, người khác nghĩ thì họ sẽ có quả riêng của họ, mình bận tâm lo chuyện của họ chi cho mất thì giờ, vô ích. Nhưng thường thường chúng ta có bệnh hay dòm ngó chuyện của kẻ khác. Chẳng những dòm ngó mà còn cố tình nghe lỏm chuyện của người ta nữa. Thấy ai nói rù rì, muốn ghé lại nghe coi họ nói cái gì. Nghe rồi liền nghĩ bậy, nói bậy, làm bậy. Thử hỏi làm sao ba nghiệp thanh tịnh được. Ba nghiệp không thanh tịnh thì mong chi được giải thoát!

Tôi nhắc lại câu chót trong bài kệ của vua Trần Nhân Tông: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”, nghĩa là đối cảnh mà tâm mình không có niệm khởi, không dính mắc, đó là thiền vậy. Nên người tu thiền là người đối với mọi cảnh, không bị nhiễm, không bị dính, không bị kẹt. Cho nên quý vị thấy hình ảnh Phật Di Lặc có sáu đứa nhỏ vây quanh, đứa móc lỗ tai, đứa móc lỗ mũi, đứa móc miệng, đứa thọc lét, nhưng Ngài vẫn cười. Tại sao? Vì Ngài đã tự tại, không còn dính mắc. Mấy đứa bé đó tượng trưng cho sáu trần ở bên ngoài. Móc lỗ tai là thinh trần, móc lỗ mũi là hương trần; móc con mắt là sắc trần v.v… Nó quấy nhiễu mà Ngài không dính mắc. Bởi không dính mắc nên Ngài là BồTát.

Chúng ta thì dính mắc đủ cả, nhiều nhất là lỗ tai và con mắt. Lỗ tai nếu nghe người ta chửi không thèm để ý là dễ, hay vừa nghe người ta chửi liền tức giận là dễ? Nghe chửi mà không thèm để ý là hết sức khó. Còn nghe người ta chửi mà nổi giận lên thì con nít cũng làm được mà.

Như vậy quý Phật tử đừng sợ người ta nói nặng nói nhẹ mình. Khi nghe nói nặng nói nhẹ mà mình bỏ lơ không thèm vướng mắc, đó không phải là thua. Mà chính nhờ đó sau này người ta mới kính mình. Còn nếu mình tranh hơn với nhau, cãi cho lanh, cãi cho thắng, thì sau này người ta cười chứ không có gì hay hết. Nên nhớ người có đạo đức không tranh giành hơn thua. Quan trọng là mình phải thắng mình. Một ý niệm xấu mình liền biết, chận nó lại, một ý niệm tốt mình liền biết và cho nó tăng trưởng. Tu như vậy mới hay chứ không phải lắng nghe chuyện thiên hạ là hay.

Chúng ta có bệnh, khi nói về mình chỉ toàn nói tốt và giấu cái xấu. Tại sao giấu cái xấu? Vì không muốn bỏ, không muốn chừa nên mới giấu. Bây giờ chúng ta biết tu rồi, cái gì xấu, cái gì dở phải thấy cho tường tận để chừa bỏ. Còn người khác mình chưa đủ khả năng giáo hóa họ thì thôi, đừng bày chuyện nói qua nói lại cho thêm phiền. Đó là quý Phật tử biết tu và khéo tu.

Như vậy bài giảng hôm nay tôi chỉ cần kết thúc bằng bốn câu kệ:

Đừng làm các điều ác
Vâng làm các việc lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy.

Mong quý vị nhớ bài kệ này để việc tu có kết quả tốt đẹp.

 

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ

Hầu hết Phật tử ai cũng biết mình tu theo đạo Phật là đạo từ bi, nhưng chưa biết thế nào là Từ thế nào là Bi. Theo chữ Hán giải nghĩa thì từ là ban vui, Bi là cứu khổ. Vậy ban vui cứu khổ là làm sao?

Từ bi là tình thương hoàn toàn vị tha, còn tình thương hoàn toàn vị kỷ gọi là ái kiến. Nhớ, cũng tình thương mà một bên là từ bi, một bên là ái kiến. Từ bi là nhân đưa con người tới an vui giải thoát. Ái kiến là nhân trói buộc con người con người đưa con người tới trầm luân sanh tử.

Tôi xin hỏi tất cả quý vị có mặt ở đây, các vị có tâm từ bi không? – Chắc ai cũng có tình thương hết nhưng tình thương đó không biết vị tha hay vị kỷ. Nhất là các bà tình thương dồi dào lắm. Khi xem cải lương hay chiếu bóng thấy người trong phim hoạn nạn thì khóc lu bu. Thương người hoạn nạn đó có phải từ bi? – Dường như là từ bi , nhưng không phải. Hầu hết chúng ta ai cũng có tình thương, nhưng tình thương vị kỷ nhiều hơn là vị tha. Thậm chí ở trong đạo mà tình thương vị kỷ vẫn còn!

Bây giờ tôi giản trạch cho quý vị hiểu thế nào là tình thương vị kỷ, thế nào là tình thương vị tha. Tình thương vị kỷ là thương người nhưng vì mình mà thương. Còn tình thương vị tha không phải vì mình mà vì người mà thương.

Ví dụ: Một phật tử lớn tuổi đi đường xách giỏ nặng, có đứa trẻ cũng đi trên đường xách dùm cái giỏ về tới tận nhà không lây tiền công . Phật tử đó nói đứa trẻ dễ thương quá! – Tại sao nó dễ xương? Vì nó xách dùm mình cái giỏ nặng mà không đòi tiền công , nên mình thương. Nếu mình đang xách giỏ nặng mà nó gởi thêm món gì nặng khoảng một ký nữa thì chắc là dễ ghét. Như vậy chúng ta thương người vì người làm lợi cho mình nên mình thương. Có những người rất chân chính ngay thẳng mà họ không làm lợi cho mình thì mình không thương. Ví dụ Phật tử buôn bán mỗi năm phải đóng thuế năm ngàn. Đến kỳ đóng thuế, nhân viên thuế vụ thâu đúng năm ngàn theo luật định không bớt đồng nào thì chú ấy không dễ thương. Người làm đúng luật mà không có lợi cho mình thì mình không thương. Ngược lại người làm lợi cho mình mà sai luật mình vẫn thương. Như vậy, chúng ta đặt tình thương trên bản ngã ích kỷ của mình. Tình thương nầy rất hạn hẹp và trói buộc. Gần nhất là vợ chồng thương nhau cũng là loại tình thương ích kỷ trói buộc.

Xưa lúc Phật còn tại thế, một hôm có người ngoại đạo hỏi:

– Cô Đàm, ái là khổ đau hay hạnh phúc?

Phật đáp:

– Ái là gốc của khổ đau.

Người ngoại đạo nghe Phật đáp lắc đầu không chấp thuận. Câu nói nầy của Phật đồn tới tai vua Ba Tư Nặc. Vua gọi vợ là phu nhân Mạt Lỵ, nói:

– Ngài Cô Đàm nói ái là gốc của khổ đau, trẫm không đồng ý. Như trẫm thương khanh , thương con và thương thần dân là khổ sao?

Phu nhân Mạt Lỵ đã quy y với Phật hiểu đạo lý, bà đáp:

Xin bệ hạ nghĩ, hiện giờ bệ hạ thương thiếp. Giả sử thiếp thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?

– Sẽ giết.

Như vậy, mình thương người mà người không thương, lại thương người khác thì giết, không phải gốc khổ là gì? Tình thương đó vì mình hay vì ai? – Vì mình nên mất cái mình thích, liền nổi giận. Thương đó không phải tình thương vị tha mà là vị kỷ nên khổ.

Lại một hôm vua Ba Tư Nặc đến hỏi Phật:

– Nghe Thế Tôn nói ái là gốc khổ đau, con chưa hiểu điều đó, xin Thế Tôn giảng dạy.

Phật đáp bằng câu hỏi:

– Ví như dân trong nước có một vùng xảy ra tai nạn chết hết năm mười người. Đại Vương nghe tin có đau khổ lắm không?

– Con thương chớ không khổ đau lắm.

Phật hỏi tiếp:

– Bây giờ giả sử công chúa con Đại Vương chết, Đại Vương thấy thế nào?

– Con rất đau khổ.

– Tại sao dạn chết năm mười người mà Đại Vương không khổ, chỉ một công chúa chết mà Đại Vương lại khổ?

Vua trả lời không được.

Thường dân chết năm mười người nhà vua chỉ thương chút thôi mà không khổ. Vì đối với dân nhà vua không có ái nên không khổ, còn đối với công chúa nhà vua có ái nên có khổ. Vậy quí vị có thấy ái là gốc của khổ đau chưa?- Dạ thấy. Đức Phật nói sanh tử trong mười hai nhân duyên, đầu mối là vô minh. Trong đời sống hiện tại, ái và thủ là tên khác của vô minh đưa con người tới sanh tử luân hồi. Vậy ái là gốc của luân hồi. Tất cả chúng ta có ái không? – Có. Muốn hiểu rõ từ bi chúng ta phải hiểu rành ái và từ bi khác nhau chỗ nào.

Từ bi là vì người khổ mà thương, thương không cột ràng. Ví dụ thấy người mù, người bịnh phong nghéo đói đi xin ăn, quí vị thương người tật nguyền giúp họ năm ba trăm cho đỡ khổ. Về sau nghe họ chết, tuy có cảm thương nhưng không khổ. Vì đó là lòng từ bi vị tha không trói buộc. Còn nếu con cháu trong nhà chết, quí vị than khóc xỉu lên xỉu xuống, có người muốn tự tử chết theo nữa. Vì tình thương này là ái, có trói buộc. Ai càng nặng thì khổ càng nhiều.

Lại có trường hợp ái người ta mà không được như ý thì trở thàng sân hận thù hằn. Chẳng hạn trong tình thương vợ chồng, nếu chồng hay vợ thay đổi tình cảm họ có thể giết nhau. Như vậy thương mà giết hại thì có thật thương không? Nếu thật thương thì đâu nỡ hại, mà hại thì đâu thật thương! Đây là tình thương của ích kỷ. Vì thương ích kỷ cho nên hại nhau. Do đó nói thương hại là vậy. Nếu thương vị tha không trói buộc thì không hại ai. Thấy người nghèo khổ thương, giúp là giúp, không bắt họ làm cái gì cho mình hết, họ không cần nữa là thôi không giúp. Họ đến với mình cũng được, họ đến với ai cũng tốt. Vì đây là lòng thương của từ bi vừa rộng rãi bao la, vừa làm cho người bớt khổ. Thương mà hết khổ, còn ái thì xiết chặt, nên ái nhiều là khổ nhiều. Chẳng những đau khổ đời nầy mà còn khổ ở những đời sau. Vì thương ai nhiều thì không muốn xa cách, khi chết sẽ tìm gặp lại nữa. nên trầm luân chết đi sanh lại buộc ràng không dứt.

Lại có những viêc làm thoáng thấy như từ bi, nhưng lại vị kỷ. Ví dụ thấy người đói rét hoạn nạn thương giúp đỡ họ, nhưng lại nghĩ mình giúp họ mai kia họ sẽ đền ơn lại. Trường hợp này không phải là từ bi. Lại có nhiều người có tâm tốt thấy người tật nguyền ăn xin, sẵn sàng đem tiền giúp đỡ, nghĩ giúp đỡ cho có phước sau này mình hưởng. Trường hợp này chưa thật là từ bi. Vì cho mà có hậu ý trông mong lợi cho mình về sau. Từ bi là thương giúp người mà không chút trông mong người đền trả, không mong lợi cho mình mai sau. Tâm từ bi như thế mới rộng lớn thênh thang.

Ngày xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang tựa là “Nhân hoa mà quả cỏ”. Mới nghe qua ai cũng ngạc nhiên hết. Câu chuyện này có liên hệ đến từ bi và ái mà chúng ta đang nói. Năm đó tôi bịnh, lên Bảo Lộc cất một cái am vừa tu vừa dưỡng bịnh. Lúc đó có mấy người tới thăm, tặng tôi những hột hoa Đà Lạt để trồng. Vì thất tôi mới cất thấy cũng quạnh hiu, trồng hoa cho nó tươi đẹp. Tôi nhận hột hoa, xới một khoảng đất, rải hột, hằng ngày tưới nước đều đặn. Khoảng một tuần thấy nó lên lấm tấm, tôi nghĩ mầm hoa mạnh. Tiếp tục tưới, khoảng nữa tháng sau tôi nhìn kỹ thấy toàn cỏ, không có cây hoa nào cả. Tôi thắc mắc, rõ ràng mình rải hột hoa sao lại lên cỏ? Tôi truy nguyên ra mới thấy mấy đàn kiến bò vô liếp đất tha hết hột hoa đi rồi mà tôi không hay, cứ tưới nước nên cỏ nó lên.

Sở dĩ tôi viết bài “Nhân hoa quả cỏ” là vì ngày xưa có một người đến than với tôi rằng: Gia đình em chồng con chết hết để lại mấy đứa cháu, con đem về nuôi cho ăn học, nhưng khi lớn khôn sao nó không thương con mà có vẻ phản bội lại. Bà lại thắc mắc tại sao chúng con làm việc tốt như vậy mà kết quả không được tốt.

Sau đó tôi tìm hiểu qua mấy đứa cháu thì nó kể: “Thực ra tui con nhờ bác nuôi, nhưng nuôi thì nuôi vậy. Mỗi sáng đi học, con bác thì bác cho hai đồng, tụi con thì một đồng, những việc nặng khó khăn thì bác giao cho tụi con làm, việc nhẹ thì để dành cho con bác. Cho tới đi chơi hay cái gì bác cũng giành ưu tiên cho con bác, tụi con chỉ được một phần nhỏ thôi”.

Hồi nhỏ cha mẹ nó chết, nó bơ vơ được bác đem về nuôi thì nó rất mừng, khi lớn lên nó thấy tình thương của bác không thật, nuôi nó như nuôi đầy tớ, nên nó không thương mà còn như phản lại. Quí vị đừng tưởng mình thương đem cháu về nuôi, nó lớn lên nó phải thương mình, nhưng khi lớn lên chẳng những nó không thương mà còn muốn phản nữa là tại sao? Việc này giống như tôi gieo hột hoa, đinh ninh sẽ lên cây hoa, chỉ cặm cụi tưới thôi, mà không canh chừng kiến tha hột hoa đi. Cũng vậy, người này nuôi cháu nghĩ mình có công nuôi là có ơn với nó rồi, mà không coi lại tình thương của mình đối với nó có đúng với tình thương của cha mẹ đối với con hay không, hay mình vẫn thấy nó là cháu gượng nuôi để nhờ. Chính vì gượng nuôi để nhờ nên nó không biết ơn. Cái thương này chưa thật là thương, vì nuôi mà đòi hỏi nó phải trả lại cho mình bằng công sức và xử sự với nó không công bằng. Còn thấy con cháu cách biệt quá, nên mất hết tình thương. Nếu con và cháu mà mình đối xử như nhau thì nó mới kính thương.

Chúng ta bắt đầu giúp người bằng tình thương, nếu không khéo nhìn kỹ, lâu ngày bị lệch mà không hay. Cái gì làm cho lệch? – Cái ích kỷ của bản ngã khiến cho cái của ta thì ưu việt sung túc hơn, cái không thuộc về ta thì đặt ở phần kém. Đó là tình thương không phải từ bi mà là thứ tình thương có xen lẫn ích kỷ của bản ngã. Nếu có bản ngã dự vào thì tình thương thể hiện qua việc làm trước sau cũng vị ngã. Còn tình thương do từ bi thì không ích kỷ; thương người, giúp cho người được an vui mà không mong cầu đòi hỏi cái gì hết.

Bây giờ nói đến hạnh từ bi. Trong các vị Bồ Tát, Bồ Tát Quán Thế Âm biểu hiện cho hạnh từ bi.

Ngài là nữ hay nam mà tượng nào cũng thấy dáng người nữ và được gọi là mẹ Quán Thế Âm? – Bồ Tát không có nam nữ, đây là hình ảnh biểu trưng cho đức từ bi, tình thương bao la không bờ bến. Mẹ hiền (nữ) thương con không bờ bến, dù cho con co thói hư tật xấu đến đâu cũng thương, nên gọi là từ mẫu. Mà từ mẫu thì gần với hạnh từ bi, cha ít gọi là từ phụ mà gọi là nghiêm phụ. Cho nên con cháu ngỗ nghịch thì cha trị, chớ mẹ ít trị được. Vì cha thì nghiêm, con cháu hư hỏng cha quở phạt, còn mẹ thì an ủi vỗ về, nên gọi là từ mẫu. Vì vậy tượng Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho từ mẫu (người nữ).

Trong kinh Phổ Môn có đoạn: “Ưng hiện đồng nam thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam thân đắc độ. Ưng hiện đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nữ thân đắc độ”. Tùy chúng sanh muốn hiện thân nào thì Bồ Tát Quán Âm hiện thân đó để độ. Như vậy Bồ Tát Quán Âm không nhất định là nam hay nữ. Nhưng vì hạnh từ bi gần với từ mẫu nên tạc tượng người nữ, tay trái cầm cái bình, tay phải cầm cành dương. Ngài cầm cái bình và cành dương để chi vậy? Có phải chúng sanh khổ, lạy mẹ Quán Âm, Ngài nhúng cành dương vào bình nước rưới cho mát mẻ hết khổ không? – Không. Bình nầy tên là tịnh bình chứa nước cam lồ. Trong kinh Phổ Môn có câu: “Nam mô Thanh Tịnh Bình Thùy Dương Liễu Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. Sái tâm nguyện là nguyện rưới nước cam lồ cho mọi người được mát mẻ. Đó là hình ảnh tượng trưng.

Bình thanh tịnh tượng trưng cho người giới đức thanh cao trong sạch, nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi. Chỉ những người giới đức thanh tịnh mới có lòng từ bi. Phật tử thọ năm giới và giữ năm giới thanh tịnh mới có lòng từ bi. Tại sao? Vì nếu phạm giới sát sanh thì không có lòng từ bi. Nếu phạm giới trộm cắp cũng không có lòng từ bi. Nếu phạm giới trộm cắp cũng không có lòng từ bi. Nếu phạm giới tà dâm cũng không có lòng từ bi. Nếu phạm giới uống rượu cũng không có lòng từ bi. Như vậy năm giới mà phạm thì lòng từ bi không thể phát khởi. Muốn có lòng từ bi phải giữ giới cho thanh tịnh. Thế nên muốn có lòng từ bi trong sáng thì phải có giới đức trong sạch. Qúi vị kiểm lại coi những giới mình đã thọ có giữ thanh tịnh không? Nếu thanh tịnh thì mới phát lòng từ bi được, nếu có một giới không thanh tịnh thì chưa từ bi. Chẳng hạn vì mình mà giết hại sinh vật, vì mình mà trộm cắp của người, vì thú vui của mình mà làm điều xằng bậy làm khổ người, sao gọi là từ bi được? Người làm những việc đó đều không có từ bi. Muốn thực hiện hạnh từ bi điều tiên quyết là phải giữ giới. Giữ giới trong sạch tức là có bình thanh tịnh mới chứa được nước cam lồ.

Nước cam lồ là gì? Cam là ngọt, lồ đọc đúng là lộ là sương, ban đêm sương đọng lại thành nước vừa trong sạch vừa mát mẻ vừa ngọt ngào. Trong sạch mát mẻ ngọt ngào là đức tánh của từ bi. Nếu người có tình thương hoàn toàn vị tha thì tình thương đó hết sức trong sạch, ai khổ thì dùng lời an ủi, dùng phương tiện giúp đỡ. Gặp người có lòng từ bi, kẻ khổ được mát mẻ an ổn, liền hết khổ. Giả sử chúng ta đang giận ai đùng đùng mà người có uy đức có từ bi đến nói những lời chơn thật nhẹ nhàng khuyên giải, cơn giận nguội dần chúng ta được mát mẻ an ổn. Thế nên lòng từ bi tới đâu thì con người an vui mát mẻ tới đó. Do đó từ bi rất quan trọng chỉ có nước cam lồ mới đủ sức tượng trưng. Người có lòng từ bi thì sẵn sàng quêm mình vì mọi người, ngược lại nếu vì mình mà quên mọi người là ích kỷ nhất.

Cành dương tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Cành dương mềm mại tha thướt, gió thổi chiều nào dương ngã theo chiều nấy, có vẻ yếu mềm nhưng không gãy,

Thực hiện hạnh từ bi tiên quyết phải giữ giới, kế đó là nhẫn nhục. Nếu giữ giới mà không nhẫn nhục thì không thể nào thực hiện hạnh từ bi được. Tại sao? Vì những chúng sanh đang khổ là những chúng sanh ít phước dễ bực bội cọc cằn, hay làm những điều xằng bậy. Nếu từ bi mà thiếu nhẫn nhục khó mà giúp đỡ họ trọn vẹn được. Ví dụ một bác sĩ giỏi trị bịnh điên, có một bịnh nhân tới chữa trị, vừa vào phòng mạch họ nổi cơn la lối chửi bới bác sĩ, có khi còn đánh đập nữa. Nếu bác sĩ thiếu nhẫn nhục, bực tức đuổi bệnh nhân về thì không trị được bệnh cuồng điên cho bệnh nhân. Như vậy một bác sĩ giỏi muốn cứu được bệnh nhân điên cuồng phải nhẫn nhục chịu đựng cơn la lối chửi bới đánh đập mới cứu được họ. Nếu không thì lòng từ bi không thể thực hiện được. Đây là điều kiện hết sức thiết yếu.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.