Lục Vân Tiên

(50) Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu.

(51) Bình thuỷ tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp.

(52) Bằng hữu chi giao : tình bạn bè.

(53) Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên.

(54) Hai bảy: mười bốn

(55) Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) kẻ Việt (phía Nam) chung một nhà.

(56) Dồi: trau dồi son phấn.

(57) Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hoà thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hoà nhau).

(58) Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả.

(59) Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi.

(60) Dâu nam giản: Người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ kinh Thi: “Hái rau tần từ bờ suối phía Nam”, là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đồng sàng: chỉ chàng rể tốt.

(61) Ngãi tế: con rể.

(62) Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ.

(63) Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người.

(64) Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai.

(65) Bình thuỷ hữu duyên: bèo nước có duyên.

(66) Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau.

(67) Kì: chỉ người tài giỏi khác thường.

(68) Bạch Hàm Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ vǎn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến.

(69) Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước.

(70) én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)

(71) Thượng trình: lên đường.

(72) Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lên đình: Sân có trồng lê.

(73) Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm.

(74) Liễm dung: Nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng.

(75) Phó công: đi thi lập công danh.

(76) Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động.

(77) Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng.

(78) Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt.

(79) Tào Khương: Tấm Cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn.

(80) Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đǎng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá.

(81) May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó bày ra rành rành.

(82) Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú.

(83) Vầy đoàn: họp lại thành đoàn.

(84) Sông đẹp núi lạ, nói cảnh đẹp.

(85) Gặp thời, thoả lòng đua sức đua tài.”

(86) Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng.

(87) Cửa Võ: Mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng nǎm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hoá rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi vượt qua Vũ môn.

(88) Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng.

(89) Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn.

(90) Kinh địa: đất kinh đô.

(91) Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng.

(92) Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề.

(93) Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm.

(94) Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: Lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon. Cúc hương: hương hoa cúc.

(95) Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất.

(96) Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn.

(97) Bất tài đồ thơ: không có tài nǎng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi.

(98) Tôn Tẩn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để gìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẩn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lựa chọn).

(99) Tuyền: trọn đủ cả. ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?

(100) Hay ghét hay thương: biết ghét và biết thương.

(101) Tầm phào: vu vơ, hão huyền.

(102) Kiệt Trụ: Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm.

103 U Lệ: U vương và Lệ vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối.

104 Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, nǎm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn.

105 Đời thúc quý: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân bǎng: chia lìa.

Sớm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh.

106 Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học.

107 Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử.

108 Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành.

109 Đồng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán.

110 Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn.

111 Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu.

112 Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học.

113 Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn.

114 Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước.

115 Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân.

116 Sào Phủ Hứa Do: Hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu.

117 Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi thú dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu. Chăng khứng: không chịu.

Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả.

118 Hai đại công thần nhà Thương.

119 Thái Công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ vương dựng nghiệp nhà Chu.

120 Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ.

121 Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh cao ẩn dật. áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát.

122 Trần Đoàn: học rộng, tinh thông kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên.

123 Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao.

124 Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền).

125 Rừng nhu biển thánh: đạo nho dày như rừng, rộng như biển.

126 Khai phong: mở phong thư.

Sự cơ: sự tình, nông nỗi.

127 Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết)

128 Sách Văn Công: Sách qui định nghi lễ về tang ma cưới xin.

129 Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con.

130 Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm.

131 Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên.

132 Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa.

133 Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao.

134 Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn.

135 Quày quã: vội quay phắt ngay đi.

136 Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người.

137 Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù.

138 Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối.

139 Đầu thang: bốc thuốc.

140 Y học, Thọ thế, Đông y các bộ sách y học cổ truyền.

141 Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt.

142 Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai.

143 Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng.

144 Ngự Toản; Hồi xuân: các sách thuốc cổ.

145 Xuân thần: Vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y.

146 Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận.

147 Lư san: bài phú dạy phép xem mạch.

148 Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết.

149 Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy.

150 Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn.

151 Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài.

152 Lục bộ: sáu bộ mạch.

153 Phù hồng: mạch nổi.

154 Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người.

155 Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hoả: dương khí (thận hoả).

156 Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hoả). Tư âm: làm vượng âm lên.

157 Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng.

158 Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại.

159 Vạn linh: thuốc chữa mắt đau.

160 Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra.

161 Đòi cuộc đòi đàn: Đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước.

162 Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc.

163 E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỉ thần nên bị quỉ thần phạt.

164 Cẫu: cầu xin giúp.

165 Châu Diệc; kinh dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán.

166 Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.

167 Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán.

168 Can, chi: (trong khoa lí số).

169 Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường.

170 Rùa thi: mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói.

171 Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa.

172 Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau.

173 Quẻ du hồn: quỉ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách.

174 Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở.

175 Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp.

176 Phù chú: lá bùa và câu thần chú.

177 Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất.

178 Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hoá thành binh lính.

179 Đạo hoả: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi.

180 Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất.

181 Hề: hề đồng

182 Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Toạ tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho.

183 Tôn Ngộ Không.

184 Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương.

185 Vị tướng đời Đường.

186 Bà tiên cai quản tiên nữ.

187 Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương.

188 Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại.

189 Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân.

190 Tráo chác: lừa dối, trở mặt.

191 Thon von: cô đơn sa sút gian nguy.

192 Khuyên giáo: đi xin của bố thí.

193 Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hoà).

194 Luông tuồng: tơi bời.

195 Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng.

196 Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn.

197 Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ.

198 Ràng ràng: rành rành.

199 Người tang: người bận áo tang.

200 Quảy đơm: cúng lễ.

201 Cô Bồng: con thuyền lẻ loi.

202 Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào.

203 Vời: khoảng nước rộng, lòng sông.

204 Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện.

205 Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa.

206 Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo.

207 Trái mùi: trái chín nục.

208 Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông.

209 Chích, đầm: ao hồ.

210 Cứu tử: cứu cho khỏi chết.

211 Chẳng đã: cực chẳng đã.

212 Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông.

213 Hạng Võ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Võ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát).

214 Phồn: giống, thứ hạng.

215 Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính.

216 Gay: vặn quai chèo chặt vào cọc chèo.

217 Trớ trinh: trớ trêu.

218 Cheo: loài nai xạ hương.

219 Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi.

Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn

220 Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian.

221 Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi.

222 Không hoà mùi chi: không ăn uống gì.

223 Bôn trình: lên đường.

224 Nhơn huynh: người anh tốt.

225 Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh.

226 Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ.

227 Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa.

228 Xuân huyên: cha mẹ.

229 Để tang ba năm cũng chưa đủ báo đáp công sinh thành của cha mạ.

230 Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu.

231 Cam La: mưu sĩ thời Chiến quốc.

232 Khương Tử Nha (xem CT 119).

233 Bôn chôn: nôn vội.

234 Lừa dối.

235 Huỳnh tuyền: suối vàng.

236 Sắt cầm: tình duyên.

237 Thất gia: chỉ vợ chồng.

238 Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó.

239 Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em.

240 Đường cung: cung vua Đường.

241 Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần Vương (Tần Thủy Hoàng).

242 Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa.

Nằng nằng: quyết một bề không đổi.

243 Điêu Thuyền dùng kế mĩ nhân quyến rũ Lã Bố và Đổng Trác, khiến Bố giết Trác.

244 Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộn.

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.