Ảnh hưởng của Phật Giáo đến đời sống văn hoá vùng Quảng Nam

CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA

Chúng ta thật sự vui mừng và tự hào rằng Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đức và văn hóa Việt Nam như thi sĩ Hồ Dzếnh đã viết:

“Trang sử Phật đồng thời là trang sử Việt
rải bao độ hưng suy, có nguy mà chẳng mất.”

Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Song đến thế kỷ thứ III mới truyền bá sâu rộng trong nhân gian do các vị tăng Ma Ha Kỳ Vực (Maha – Jivaka), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương (Kalaruei). Từ đây có Kinh dịch chữ Phạn (Sanskrit) ra chữ hán. Như thế, Phật giáo đã thấm nhuần lan rộng trong quần chúng, mặc dù đất nước đang bị ngoại xâm cai trị. Trung tâm văn hóa Luy Lâu chính là nơi các vị sư Ấn Độ đến truyền đạo. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trụ sở của Giao Chỉ, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam, tức huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Từ đây có những tuyến đường thủy bộ nối với Bành Thành và Lạc Dương. Các nhà buôn người Ấn Độ và người Trung Á đến buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ các nhà sư đến hành đạo và truyền đạo.

Sách Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam cũng đã kết luận: “Đạo Phật từ Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới do từ Trung Hoa truyền xuống”. [11,23]

Sách “Thiền uyển tập anh ngữ lục” (được soạn từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII) ghi chép về tình hình Phật giáo Luy Lâu trong buổi đầu khá rõ ràng. Cuốn sách có đoạn khi Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) nhà Lý hỏi thiền sư Trí Không (quốc sư Thông Biện) về đạo Phật truyền vào xứ ta từ khi nào, nhà sư đã trình bày vắn tắt lịch sử truyền Phật giáo ở nước Trung Hoa và nước ta rồi dẫn lời sư Đàm Thiên người Trung Hoa trả lời vua Tùy Văn Đế về Phật giáo Giao Châu: “xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo vào Trung Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được bộ  kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”. [35, 31]

“Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái viết vào thời Trần có chuyện Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), kết duyên với công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng. Sau đó, Chử Đồng Tử trên đường đi buôn, chàng đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều trên đảo Quỳnh Viên. Nhà sư giảng đạo cho Đồng Tử, Đồng Tư đã giác ngộ đạo Phật được nhà sư Ấn Độ cho một chiếc gậy và một nón lá để có thể chóng gậy úp nón lên làm phép cầu mưa cầu nắng. Khi trở về Chử Đồng Tử đã truyền Phật pháp cho công chúa Tiên Dung và nhiều người khác”. [11,10]

Câu chuyện trên là phần nào cũng đã phản ảnh Phật giáo du nhập vào đồng bằng Bắc bộ khá sớm trước khi tiếp nhận văn hóa Trung Hoa. Vì Phật giáo trực tiếp với người Ấn Độ nên thời ấy dân Việt Nam gọi Phật là ông Bụt bởi từ chữ Buddha mà ra về sau khi Phật giáo đã qua Trung Hoa thì Buddha đựơc phiên âm qua tiếng hán là Phật Đà và để lại tiếng Phật được phổ biến sử dụng. Trong khi đó dân gian cũng vẫn gọi Phâỉt là ông Bụt. Như vậy qua những dẫn chứng trên, chúng ta biết được Phật giáo được truyền từ Ấn Độ sang nước ta rất sớm. Trước đó, lớp người cai trị đem Khổng giáo dạy dân. Song Khổng giáo đến do giai cấp thống trị áp đặt nên không phổ biến quần chúng. Phật giáo đến với dân tộcViệt Nam từ lòng hâm mộ kính ngưỡng của quần chúng, nhất là quần chúng ỡ thôn quê, vì Phật giáo dễ dung hội với tín ngưỡng dân tộc nên được quần chúng chấp nhận dễ dàng.

Trong mấy ngàn năm đạo Phật tồn tại ở Việt Nam, tuy đã hết một ngàn năm Trung Hoa đô hộ thì ta không thể không bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa. Nhưng Phật giáo Việt Nam vẫn giữ được bản sắc của mình chính là nhờ nó khéo thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, địa lí và văn hóa của dân tộc, biến thành một cái gì gần gũi nhất, thân thương nhất của dân tộc Việt Nam.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam đến nay đã hơn hai ngàn năm. Trong suốt thời gian ấy, sự hoạt động truyền bá của Phật giáo trong lòng mỗi người dân Việt đã để lại trên đất nước ta biết bao tiếng nói văn hóa, những ngôi chùa tháp, những pho tượng thờ nói về kiến trúc, mỹ thuật, về ý nghĩa xã hội. Những nếp nghĩ, nếp sống theo Phật giáo của người dân Việt được biểu hiện ra ý thức, tư tưởng, quan niệm nhân sinh, đời sống chính trị, nếp sống tâm linh v.v… và một mảng lớn là Phật giáo để lại đối với văn học Việt Nam.

Chúng ta nhận thấy rằng Phật giáo Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa, nhưng đạo Phật hội nhập vào văn minh Việt Nam là cả một quá trình lâu dài mãi cho đến ngày nay và vẫn tiếp tục, đó là sự hòa mình của đạo Phật, với tư thế là một luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Có thể nói đó là quá trình đạo Phật dần dần được bản địa hóa, Việt Nam hóa, biến thành một phần cơ thể của nền văn minh Việt Nam.

Khi nói đến truyền thống văn hóa Phật Giáo Việt Nam là nói đến những gì tốt đẹp, cởi mở giàu nhân tính mà từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã đem lại cho con người việt Nam, cho đất nước Việt Nam, giúp cho đất nước giữ vững được quyền tự do độc lập, phát triển một nền kinh tế và văn hóa thịnh vượng giàu bản sắc dân tộc.

This entry was posted in Phật Giáo, Văn Hóa, Đời Sống. Bookmark the permalink.